Trần Đăng Khoa sinh ngày 9/4/1958. Quê gốc ở Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Hiện ở phường Ngọc Châu, thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Từ nhỏ ông đã được mọi người biết đến như là một thần đồng về thơ ca. Nhiều bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời được nhiều người yêu thích. Năm 10 tuổi, anh xuất bản tập thơ đầu tiên. Khi còn nhỏ, anh đã có bài thơ đăng báo khi mới 8 tuổi. Một số bài thơ tiêu biểu của ông: Hương cây - 1967; Mây và sóng - 1967; Khúc hát người anh hùng - 1967; Anh đom đóm - 1970; Mẹ ốm - 1968; Tiếng vọng; Con tàu trắng; Bầm ơi!; Cây dừa; Mưa; ... Trong đó bài thơ Hạt gạo làng ta được in trong sách giáo khoa lớp 3. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp, sự quý giá của hạt gạo và tình cảm gắn bó với quê hương, con người Việt Nam.
Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam:
"Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay..."
Hạt gạo được ví như "vị phù sa" của dòng sông Kinh Thầy, mang trong mình hương vị của đất đai, của thiên nhiên. Hạt gạo còn mang trong mình "hương sen thơm", gợi lên vẻ đẹp thanh tao, thuần khiết của làng quê Việt Nam. Hạt gạo còn thấm đượm "lời mẹ hát", là lời ru ngọt ngào, ấm áp của người mẹ, chứa đựng tình yêu thương vô bờ bến dành cho con cái. Những hình ảnh này đã góp phần tạo nên một bức tranh làng quê Việt Nam tươi đẹp, bình dị mà đầy sức sống.
Tiếp theo, tác giả đã khắc họa hình ảnh hạt gạo qua những hình ảnh cụ thể, chân thực:
"Hạt gạo làng ta
Có bão tháng Bảy
Có mưa tháng Ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng Sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy..."
Hạt gạo được hình thành từ những điều kiện tự nhiên khắc nghiệt: "bão tháng Bảy", "mưa tháng Ba", "trưa tháng Sáu nắng gắt". Hình ảnh "giọt mồ hôi sa" của người nông dân đã thể hiện sự vất vả, gian lao của họ trong quá trình làm ra hạt gạo. Hình ảnh "nước như ai nấu" và "cua ngoi lên bờ" đã gợi lên khung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt, khiến cho việc trồng lúa càng thêm khó khăn. Tuy nhiên, dù gặp bao nhiêu khó khăn, thử thách, người nông dân vẫn kiên trì, cần mẫn, bám trụ ruộng đồng để làm ra hạt gạo nuôi sống con người.
Hình ảnh người nông dân được tác giả khắc họa thật chân thực, sinh động:
"Những năm bom Mĩ
Trút trên mái nhà
Những năm băng đạn vàng
Như lúa đồng ta
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta..."
Người nông dân Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhưng họ vẫn kiên cường, bất khuất, tiếp tục sản xuất lương thực để phục vụ kháng chiến. Hình ảnh "những năm bom Mĩ trút trên mái nhà" đã gợi lên khung cảnh chiến tranh tàn khốc. Hình ảnh "những năm băng đạn vàng như lúa đồng" đã thể hiện sự trù phú, sung túc của làng quê Việt Nam. Dù trong hoàn cảnh nào, người nông dân vẫn luôn lạc quan, yêu đời, cất tiếng hát vang lên niềm vui chiến thắng.
Bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi nhưng giàu sức gợi hình, gợi cảm, cùng với việc sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, liệt kê,... tác giả đã vẽ nên bức tranh làng quê Việt Nam tươi đẹp, bình dị mà đầy sức sống. Đồng thời, bài thơ cũng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của tác giả.
Qua bài thơ Hạt gạo làng ta, Trần Đăng Khoa đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của mình. Bài thơ đã ca ngợi vẻ đẹp, sự quý giá của hạt gạo và tình cảm gắn bó với quê hương, con người Việt Nam.