Trần Tế Xương cay nhất là chuyện thi cử. Tài giỏi như ông mà phải đến lần thi thứ tám mới đậu vét được cái tú tài. Mà Tú tài thời đó thì được tiếng là "ông Tú" nhưng chỉ được "làm quan tại gia", "ăn lương vợ". Nhưng không được thênh thênh trên đường hoạn lộ chưa hẳn đã là rủi, thì ông Tú Xương làm thơ, làm thi sĩ, thành thi hào! Bài thơ "Vịnh khoa thi hương" là một đòn trời giáng của Tú Xương vào chế độ thi cử mạt vận, hổ lốn, ô nhục của thời thực dân mới đặt chân cai trị đất nước ta.
Lẽ ra, với một người nhiều tự ái như Tú Xương, ông đã bỏ thi từ sau lần thứ tư (1894). Nhưng do khuyến khích của vợ - bà Phạm Thị Mẫn, một người phụ nữ đảm đang, tần tảo, vừa buôn bán, vừa nuôi chồng nuôi con, vừa động viên chồng học hành, thi cử nên ông quyết định cố gắng nỗ lực hơn nữa. Và ông đã đỗ tú tài năm 1894. Sau đó 4 năm, năm 1898, ông tiếp tục thi để giành lấy mảnh bằng Tây học nhưng chữ Hán lúc này đã bị bãi bỏ, ông trượt và từ đó dứt khoát không chịu học thêm nữa. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục tham dự các kì thi khi được mở cho những người đã đỗ tú tài như ông và các sĩ tử khác vẫn còn khao khát con đường khoa cử. Năm 1900, ông dự kì thi Hội và một lần nữa bị đánh hỏng.
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" có thể được làm trong một trong những lần "dù em thi đỗ, anh cũng chưa thi xong" ấy. Bài thơ miêu tả rất thực, rất cụ thể hiện thực nhốn nháo, ô hợp của một kì thi cấp tỉnh thời thuộc Pháp. Đồng thời, qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực đất nước dưới sự thống trị của thực dân Pháp.
Mở đầu bài thơ, tác giả viết:
"Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà"
Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bây giờ, dưới chế độ thực dân phong kiến, việc thi cử vẫn còn là việc của nhà nước nhưng của một nhà nước mà mọi mặt từ kinh tế đến chính trị đều rơi vào tay bọn thực dân. Mục đích của việc thi cử vẫn là kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, đào tạo nhân tài nhưng điều đó đối với chúng chẳng qua là một phương tiện, một chiêu bài mị dân để dễ bề cai trị dân tộc ta. Tính chất ô hợp của kì thi được khắc họa rất rõ trong hai câu thơ tiếp theo:
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa"
Những nhân vật trọng tâm xuất hiện. Sĩ tử đi thi mang theo vợ con, đem theo bao nhiêu thứ tầm thường của cuộc sống hàng ngày. Một cuộc sống nghèo khó, lam lũ, tạm bợ. Chỉ có kẻ vô học, vô lối mới lôi thôi, lếch thếch như thế. Quan trường cũng vậy, cũng ậm oẹ, cũng thét loa như hát chèo. Lời thơ như gợi lên cảnh tượng ồn ào, nhốn nháo, quả thật là ô hợp.
Quang cảnh trường thi gợi lên sự trớ trêu bởi vì vốn dĩ chốn trường thi là nơi nghiêm túc, trang nghiêm, nơi tách biệt của sĩ tử, nơi thanh lọc con người, nâng tầm trí tuệ nhưng giờ trở nên quá lộn xộn, mất hết vẻ trang nghiêm vốn có của nó. Tác giả đã khéo léo sử dụng nghệ thuật đảo trật tự cú pháp câu thơ: "Lôi thôi sĩ tử", "Ậm ọe quan trường" làm nổi bật tính chất ô hợp của trường thi, sĩ tử và quan coi thi. Hình ảnh "Sĩ tử" gợi lên dáng vẻ luộm thuộm, nhếch nhác, mang dáng dấp của kẻ nông thôn lên tỉnh lần đầu tiên. Còn "quan trường" thì ra vẻ quan tước, hách dịch, nói giọng điệu quát tháo, ra lệnh. Qua đó, hiện lên một sân khấu hài hước, nơi tách biệt hoàn toàn với cuộc sống trang nghiêm vốn có của nó.
Tiếp theo, hai câu thực đã khắc họa một cách sâu sắc và sinh động hình ảnh "quan sứ" và "mụ đầm":
"Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra"
Ở đây, tác giả sử dụng bút pháp trào phúng, châm biếm sâu cay. Vị trí của quan sứ và mụ đầm ở vị trí trang trọng, được đón tiếp long trọng song hành với sĩ tử và quan trường. Từ đó, tác giả ngầm so sánh, đặt ra một sự tương phản gay gắt giữa vị trí của "sĩ tử" với "quan trường" một bên và "quan sứ" với "mụ đầm" một bên. Việc đón tiếp "quan sứ" và "mụ đầm" long trọng như vậy cho thấy nhà nước thực dân phong kiến ta lúc bấy giờ rất coi trọng và đê hèn như thế nào. Nghệ thuật đối của Tú Xương càng làm nổi bật hơn sự ô hợp, lộn xộn của trường thi.
Đến hai câu luận:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà"
Hình ảnh "nhân tài đất Bắc" là một hình ảnh ẩn dụ, vừa chỉ những người tài giỏi của đất nước, những người có lòng yêu nước nồng nàn, có tinh thần trách nhiệm với non sông; vừa chỉ chính bản thân nhà thơ. Câu thơ "Nhân tài đất Bắc nào ai đó" như một lời kêu gọi những người tài giỏi hãy đứng lên đấu tranh cho công lí, bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Câu thơ cuối cùng "Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà" là lời nhắn nhủ các sĩ tử hãy nhìn lại cảnh ngộ đất nước mà suy ngẫm về số phận dân tộc. Nhà thơ mong muốn những sĩ tử, những nhân tài hãy đứng lên đấu tranh, cứu nước, cứu nòi giống.
Cuối cùng, hai câu thơ kết đã thể hiện một cách trực tiếp nỗi đau xót, lo lắng cho tình trạng đất nước:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà tông cảnh nước nhà"
Câu thơ "Nhân tài đất Bắc nào ai đó" lặp lại cấu trúc với câu thơ thứ 6 "Nhân tài đất Bắc nào ai đó" nhưng mang ý nghĩa sâu sắc. Nó không chỉ là lời kêu gọi các sĩ tử hãy đứng lên đấu tranh cho công lí, bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ của dân tộc mà còn là lời tự vấn bản thân nhà thơ, tự vấn những người tài giỏi của đất nước. Câu thơ cuối cùng "Ngoảnh cổ mà tông cảnh nước nhà" là lời nhắn nhủ các sĩ tử hãy nhìn lại cảnh ngộ đất nước mà suy ngẫm về số phận dân tộc. Nhà thơ mong muốn những sĩ tử, những nhân tài hãy đứng lên đấu tranh, cứu nước, cứu nòi giống. Nỗi đau xót, lo lắng của nhà thơ được thể hiện qua câu hỏi tu từ "Ngoảnh cổ mà tông cảnh nước nhà". Đó là nỗi đau xót, lo lắng cho tình trạng đất nước, cho số phận của dân tộc.
Như vậy, bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Trần Tế Xương đã thể hiện một cách chân thực và sinh động hiện thực xã hội Việt Nam buổi giao thời dưới cái nhìn của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ đã phê phán sâu sắc chế độ thi cử phong kiến đương thời và bộc lộ niềm đau xót của nhà thơ trước tình trạng đất nước bị lâm vào cảnh nô lệ. Bài thơ cũng thể hiện tài năng và tấm lòng của Tú Xương đối với đất nước, với con người.