Chính Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Trong số những tác phẩm của ông, có một bài thơ đã gây nên tiếng vang lớn trong lòng độc giả, bởi những xúc cảm dạt dào, chân thực giữa những người lính, những người đồng đội. Đó là bài thơ đồng chí. Qua ba câu đầu của bài thơ, tác giả đã lý giải được cho người đọc về cơ sở của tình đồng chí, đồng đội :
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
Ở những câu thơ đầu tiên, Chính Hữu giới thiệu về quê hương của "tôi" và "anh". Với cấu trúc câu thơ song hành, đối xứng, ta có thể thấy, "tôi" và "anh" dù là hai người khác nhau nhưng dường như có sự đồng điệu giữa hai con người tưởng chừng xa lạ ấy. Họ đều là những người nông dân nghèo, ở những vùng quê khác nhau : "quê hương anh nước mặn đồng chua", "làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá". Thành ngữ "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" gợi ra sự nghèo khó, cằn cỗi của những miền quê ven biển hay những vùng rừng núi. Từ cái nền cảnh ấy, họ đến với trại lính, gặp gỡ nhau và trở nên thân thiết. Câu thơ "Đôi người xa lạ/ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau" vừa nói lên sự xa lạ ban đầu, vừa nói lên sự gặp gỡ không hẹn trước giống như một mối duyên đã có sẵn từ trước. Từ đó, tác giả dần hé lộ về cơ sở của tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính cách mạng.
Cơ sở thứ nhất được nhắc đến là cùng chung hoàn cảnh xuất thân nghèo khó. Cơ sở thứ hai là cùng chung lý tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Và cơ sở thứ ba cũng là điều quan trọng nhất để duy trì tình cảm thiêng liêng ấy : sự sẻ chia, gắn bó sâu sắc trong mọi không gian, thời gian, hoàn cảnh. Những năm tháng chiến đấu, những người lính phải chịu đựng nhiều khó khăn, thiếu thốn. Thời tiết khắc nghiệt, nơi đóng quân cũng khắc nghiệt. Nơi rừng hoang, nơi biên cương, nơi nào cũng thấm đẫm vẻ hoang sơ, lạ lẫm. "Súng bên súng" là cách nói hàm súc, giàu hình tượng, đó là những con người cùng chung lí tưởng chiến đấu. Họ cùng nhau ra trận chiến đấu, cùng nhau vào sinh ra tử, vì mục tiêu độc lập tự do cho Tổ quốc. Bởi vậy, họ hiểu nhau và thân thiết như ruột thịt. Tình cảm ấy khiến họ trong cảnh ngộ nào cũng luôn sát cánh bên nhau.
Tình cảm ấy càng được bộc lộ sâu nặng hơn trong đêm rét chung chăn. "Đêm rét chung chăn" là một đêm đặc biệt. Cái rét buốt của mùa đông như len lỏi vào từng mảnh chăn, từng tấm áo của những người lính nghèo. Dù rét nhưng tâm hồn họ luôn sục sôi một tinh thần mãnh liệt và cháy bỏng. Chính cái rét lạnh của thời tiết khiến những tấm chăn mỏng manh kia trở thành nơi san sẻ hơi ấm. "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay" là một hình ảnh đẹp, gợi lên những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt, những nỗi lòng của những người lính. Chỉ bằng những cử chỉ giản dị thôi, những con người ấy đã khiến cho tình đồng đội, đồng chí thêm keo sơn, gắn bó. Họ truyền cho nhau kinh nghiệm, hơi ấm, niềm tin chiến thắng. Chính vì vậy, trong trái tim những người lính luôn tồn tại ánh sáng của niềm tin, của tình yêu thương, của hi vọng...
Như vậy, chỉ qua ba câu thơ mở đầu, Chính Hữu đã tái hiện lại tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, thắm đượm tình cảm. Tình cảm ấy được xây dựng trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu. Tình cảm ấy sẽ mãi tỏa sáng và đọng lại trong lòng những người lính cụ Hồ.