
21/11/2023
Làm sao để có câu trả lời hay nhất?

21/11/2023

21/11/2023

"Người lái đò sông Đà là bài bút kí được trích ra từ tập "Sông Đà" rất nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Tuân. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của nhà văn để tìm kiếm "thứ vàng mười" trong thiên nhiên và con người. Trong bài kí, nhà văn đã miêu tả hình ảnh sông Đà với nét tính cách hung bạo, dữ dội hiếm thấy, khác hẳn so với những dòng sông khác.
Ngay từ lời đề từ, Nguyễn Tuân đã trích thơ của Nguyễn Quang Bích để giới thiệu về sông Đà "Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu". Hai câu thơ này có nghĩa là tất cả mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ có riêng sông Đà thì chảy về hướng bắc. Qua lời nhận xét đó, ta thấy được phần nào nét độc đáo, khác lạ riêng biệt của sông Đà. Đây không phải là một dòng sông hiền hòa như những dòng sông khác mà có hướng chảy bất thường, không chịu uốn mình theo quy luật. Lời đề từ này có lẽ cũng đã báo hiệu cho người đọc biết về tính cách hung dữ, bạo ngược của sông Đà.
Ngay ở những dòng văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã khẳng định sông Đà có cái hùng vĩ. Đó là do vách đá hai bên bờ sông cao khiến nhà văn có những cảm giác rợn ngợp. Ông đã cảm nhận điều ấy bằng cả thị giác và xúc giác. Khi nhìn hai bên đá dựng thành vách, hiểm trở, cao vút như thành quách, lòng sông bỗng trở nên cao và sâu hơn bình thường rất nhiều. Lòng sông cũng hẹp, đôi bờ xích lại gần nhau và đá thì "Chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu". Lối so sánh, ẩn dụ, liên tưởng độc đáo gợi tả độ hẹp đến nghẹt thở của lòng sông, độ cao hun hút, thăm thẳm của vách đá khiến con người cảm thấy sợ hãi trước những thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ. Khúc sông này cũng lạnh, cái lạnh giữa mùa hè khiến nhà văn cảm thấy như bản thân đang bị đe dọa bởi thế lực không tên. Không khí lạnh lẽo âm u càng khiến cho sông Đà trở nên bí hiểm hơn bao giờ hết.
Đoạn mặt ghềnh Hát Loóng "dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm". Đọc câu văn, ta thấy được kết cấu trùng điệp, các thanh sắc được sử dụng liên tiếp kết hợp với động từ "xô" được điệp lại trong cả ba vế câu giúp người đọc cảm nhận được từng chuyển động của dòng sông. Sóng to, gió lớn như chồm lên, gối vào nhau cuốn lấy hết thảy mọi thứ trên mặt sông rồi dìm xuống đáy. Sức mạnh khủng khiếp ấy vẫn "gùn ghè suốt năm", chỉ cần người lái đò khinh suất tay lái một chút thôi cũng sẽ vồ lấy, nuốt chửng lấy cả thuyền lẫn người. Đây có lẽ là khúc sông nguy hiểm nhất đối với bất cứ người lái đò nào qua đây.
Đến đoạn Tà Mường Vát, nhà văn sử dụng biện pháp so sánh để miêu tả những cái hút nước "giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu" cứ xoay tít tận đáy. Lại thêm liên tưởng so sánh việc đi thuyền qua dòng sông quãng này như đi trên quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Nếu không vững tay lái thuyền sẽ bị hút vào những cái hút nước và "trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Những liên tưởng, so sánh này khiến cho người đọc hình dung rất rõ về sự hiểm nguy, rủi ro khi phiêu lưu trên sông Đà. Từ đó, tô đậm thêm sức mạnh hùng vĩ, ghê rợn của Đà giang.
Không chỉ những khúc sông có địa thế hiểm trở, nguy hiểm mà tiếng thác nước sông Đà phát ra cũng phải khiến người ta kinh sợ. Âm thanh ấy được tác giả so sánh như "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "gằn", "chế nhạo", "Rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lên giữa rừng vầu, tre, nứa đang nổ lửa…". Nó mang đến cho con người cảm giác sợ hãi, lo lắng không biết nó phát ra từ đâu hay báo hiệu điều gì. Những sự so sánh "lửa" với nước, "rừng" và thác cũng giúp nhà văn khắc sâu vào tâm trí người đọc cái dữ dội của nơi đây. Đứng trước thiên nhiên, con người thật nhỏ bé và bất lực . Âm thanh thác nước chảy như càng tô đậm vẻ hùng tráng, trắc trở khôn lường của dòng sông.
Ải cuối cùng của khúc sông dữ dội chính là những hòn đá đã mai phục từ ngàn năm trước. Thác đá đã bày ra thạch trận, giao việc cho mỗi hòn đá như giao nhiệm vụ cho các tướng sĩ trước giờ xuất quân. Đặc biệt hơn, nó đã bố trí những "trùng vi thạch trận" như trận đồ bát quái. Có đến ba cửa ải đá cần phải qua. Ở đây, tác giả đã liên tưởng từng trận chiến như những cuộc đấu bóng hay những trận đánh thực sự. Nguyễn Tuân sử dụng rất nhiều từ ngữ thuộc nhiều chuyên ngành thể thao, quân sự, võ thuật như "hàng tiền vệ", "nhiệm vụ của những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba", "reo hò làm thanh viện",... để miêu tả trận chiến giữa ông lái đò và thạch trận. Những hòn đá được nhân hóa như có linh hồn, biết đánh đấm, có ý nghĩ nham hiểm , độc ác, thác nước biết cổ vũ,... Trận chiến được miêu tả tỉ mỉ từng chút một khiến người đọc không thể rời mắt ra được. Tất cả đều nhằm khắc họa một sông Đà dữ dội, nham hiểm, hung bạo.
Trong đoạn kí này, Nguyễn Tuân đã thể hiện lối viết tài hoa, uyên bác của mình khi những thủ pháp so sánh, nhân hóa được ông cài cắm hết sức khéo léo, tinh tế. Những liên tưởng, tưởng tượng của nhà văn cũng đầy ấn tượng, độc đáo mới mẻ. Ông là người học rộng hiểu nhiều nên những tri thức, thuật ngữ của các lĩnh vực khác nhau cũng được ông đưa vào hết sức tài tình, hợp lí. Những câu văn có độ dài ngắn khác nhau, kết cấu câu văn trùng điệp càng làm tăng sức gợi sự hiểm nguy, khôn lường của thác nước sông Đà.
Với ngòi bút đầy tài hoa và uyên bác của mình, Nguyễn Tuân đã khéo léo mang đến cho người đọc thấy nét tính cách ngang ngược, hung hăng, dữ dội của sông Đà. Chỉ một đoạn sông ngắn ngủi mà qua lời văn của ông, người đọc như đang chứng kiến một bộ phim tài liệu có hình ảnh sắc nét và chân thực. Từ đó, ta thấy được tình yêu thiên nhiên đất nước của tác giả. Phải thật sự muốn tận hưởng cái hùng vĩ của non sông thì mới có thể viết ra những lời văn đầy tinh tế như Nguyễn Tuân.
Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản miễn phí!
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Copyright © 2025 fqa.vn All Rights Reserved