logo fqa gpt

banner fqa app
Tải APP FQA Hỏi & đáp bài tập
Tải ngay
nguyen toan

24/11/2023

Cảm nhận của em về bài thơ Hỏi của Hữu Thỉnh
Trả lời câu hỏi của nguyen toan
right
Viết câu trả lời

Làm sao để có câu trả lời hay nhất?

  • Luôn có GIẢI THÍCH các bước giải
  • Không copy câu trả lời của Timi
  • Không sao chép trên mạng
  • Không spam câu trả lời để nhận điểm
  • Spam sẽ bị khóa tài khoản
CÂU TRẢ LỜI
Timi

24/11/2023

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh là một tác phẩm đầy ý nghĩa và sâu sắc. Em cảm nhận rằng qua bài thơ này, tác giả đã gửi gắm cho chúng ta một bài học quan trọng về lối sống con người. Từ câu hỏi "Người sống với người như thế nào?" đặt ra trong bài thơ, Hữu Thỉnh đã khéo léo đánh thức lòng người đọc, khiến chúng ta phải suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc sống và cách chúng ta sống với nhau. Bài thơ mang đến một thông điệp tích cực về tình yêu thương và đoàn kết. Chúng ta cần biết yêu thương nhau, giúp đỡ nhau để tạo nên một cuộc sống ý nghĩa và đẹp đẽ hơn. Đó là một bài học quan trọng về lòng nhân ái và sự đồng lòng trong xã hội. Dù cuộc sống có khó khăn và thách thức, nhưng nếu chúng ta sống với tình yêu thương và đoàn kết, chúng ta có thể vượt qua mọi khó khăn và tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn. Bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh đã khắc sâu trong tâm trí em thông điệp này và khuyến khích em sống một cuộc sống có ý nghĩa và đồng lòng với mọi người xung quanh.
vumanhhuy

24/11/2023

Câu trả lời uy tín

Hữu Thỉnh là nhà thơ luôn hướng tâm hồn mình về với thiên nhiên, thơ ông nhẹ nhàng êm ả. Thế nhưng, bằng con mắt của người nghệ sĩ đã trải qua hơn nửa thế kỉ, ông luôn đem đến những vấn đề triết lí sâu sắc khiến con người ta phải dừng lại mà chiêm nghiệm. Hỏi là một trong những bài thơ như thế, tuy nhẹ nhàng, thuần khiết nhưng lại khiến độc giả phải nghĩ suy. 

Bài thơ Hỏi của Hữu Thỉnh được viết năm 1992, lúc này tác giả đã năm mươi tuổi. Sống trọn một nửa thế kỷ, ở vào cái tuổi “tri thiên mệnh” như Khổng Tử nói, Hữu Thỉnh đã đủ độ chín trong suy tư trải nghiệm về thế thái nhân tình. Thường càng nhiều tuổi, nhiều kinh lịch, cái nhìn và cách ứng xử của người ta càng nhân hậu, vị tha hơn. Biết được những cái chưa biết của mình về đời, hiểu được những điều chưa hiểu của mình về người, do vậy những trang văn thường dồn nén chất nghĩ và sức nghĩ.

 Bài thơ có thể chia thành hai phần: ba khổ đầu, mỗi khổ hai câu. Khổ cuối sáu câu viết liền mạch. Toàn bài được xây dựng theo hình thức đối thoại. Người hỏi là chủ thể trữ tình, ở đối tượng hướng tới là thiên nhiên: “đất”, “nước”, “cỏ” (ba khổ đầu) hình thức ngôn ngữ là đối thoại, còn đối tượng hướng tới là Con người (nửa còn lại), ngôn ngữ thơ là độc thoại. Tính trí tuệ của bài thơ nằm ngay trong kết cấu, thể hiện vừa sâu vừa tinh, vừa khái quát vừa chi tiết những tình cảm, suy ngẫm của tác giả. Tứ thơ tạo dựng từ sự liên tưởng, đối chiếu: liên tưởng từ các hiện tượng tự nhiên đến nhân sinh. Thiên nhiên được nội tâm hoá, mang tầm vóc triết học, nhìn qua lăng kính ưu tư nhân thế đầy thi vị:

Tôi hỏi đất: - Đất sống với đất như thế nào?

- Chúng tôi tôn cao nhau

Tôi hỏi nước: - Nước sống với nước như thế nào?

- Chúng tôi làm đầy nhau        

Tôi hỏi cỏ:  -  Cỏ sống với cỏ như thế nào?

- Chúng tôi đan vào nhau

Làm nên những chân trời

Những câu thơ của Hữu Thỉnh mang ý – nghĩa - đi - tìm, tìm cách khám phá và cảm nhận ý nghĩa văn hoá ẩn dụ trong những hiện tượng tự nhiên. Ý nghĩa ấy được trình bày bằng lời hỏi của tác giả “tôi hỏi...”. Điều nhà thơ muốn hỏi đất, hỏi nước, hỏi cỏ là những sự vật ấy sống với nhau như thế nào. Từng sự vật đưa ra câu trả lời trực tiếp, dưới hình thức vấn đáp (các dấu gạch ngang đầu dòng) mà không phải gián tiếp qua lời thuật lại của tác giả. Mỗi khổ thơ đều mang ý nghĩa sâu sắc, hình thức giản dị, nhiều sức gợi, và có tính độc lập tương đối về mặt nội dung chứ không có sự lệ thuộc khổ thơ này với những khổ thơ kia, mặc dù tất cả đều hội nhập thành tư tưởng chung. Hình thức mỗi khổ thơ gồm hai câu đi kèm với nhau ấy có dáng dấp như những câu thành ngữ, tục ngữ của cha ông ta xưa, qua sự chiêm nghiệm đúc kết mà có được, khiến câu thơ mang tính chất dân gian nhuần nhị. Mặt khác, cấu trúc ngôn ngữ đối thoại tạo nên sự đa giọng điệu, sự đa thanh – cái mà thơ cổ chưa hề có – làm nên tính hiện đại của bài thơ.

Lối tư duy, cảm nhận hướng về thiên nhiên trong mối quan hệ hoà hợp được tiếp thu từ truyền thống dân tộc và phương Đông đưa Hữu Thỉnh tìm đến các sự vật: “đất”, “nước”, “cỏ”. Sự đi tìm này là quá trình của tư duy nghệ thuật. Từ cái nhìn trước hiện tượng khách quan: tầng đất tôn nhau lên, nước làm đầy, cỏ đan vào nhau mở ra bát ngát chân trời, nhà thơ chuyển hoá thành cái nhìn nội tâm: hình ảnh bên ngoài ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa bên trong: từng sự vật đều có cách thức sống riêng làm ẩn dụ cho nhân thế, có tiếng nói riêng mang hồn cốt thâm hậu. Và từng hình ảnh đều đẩy lên ý nghĩa biểu tượng chiếu qua cảm niệm triết học của Hữu Thỉnh.

Logic cảm thụ của Hữu Thỉnh đầu tiên bám rễ vào hình tượng “đất”:

Tôi hỏi đất: - Đất sống với đất như thế nào?

- Chúng tôi tôn cao nhau

Tại sao nhãn quan nghệ thuật nhà thơ lại lựa chọn hình ảnh “đất” trước hết? Phải chăng bởi trong tâm thức, tâm linh loài người, đất muôn thủa vẫn là thứ gắn bó máu thịt và thiêng liêng nhất, phương Đông hay phương Tây, tự cổ chí kim đều như vậy. Trong văn chương, đất Mẹ vẫn được ví như cái gốc đời sống, là bệ phóng của mọi thành tựu nghệ thuật. Những nhà triết học cổ đại Hy Lạp có trực cảm rất gần với Á Đông hơn là duy lý khi họ gọi bản chất của vũ trụ là lửa, đất, nước, không khí, nguyên tử...Ở phương Đông, theo quan niệm triết lý cổ Trung Hoa về câu trúc không gian vũ trụ, đất là một yếu tố thuộc mô hình “tam tài” (thiên - địa – nhân), đất ở giữa điều hoà theo nguyên lý ngũ hành... Đối với người Việt ta, đất mang cốt căn bản địa: “đất có lề, quê có thói”...Hữu Thỉnh ở thời kỳ hiện đại đã nhìn thấy đất trong mối quan hệ “sống cùng”, “sống với”. Từ cái nhìn hiện tượng luận, Hữu Thỉnh khám phá ra ý nghĩa nhân sinh: “tôn cao” là một triết lý sống. “Tôn cao” trái ngược với hạ thấp, hạ bệ; “tôn cao” là nâng đỡ chứ không phải vùi dập, “tôn cao” là hướng mở không gian chứ không gói gọn không gian; “tôn cao” là vươn ra ánh sáng chứ không phủ mờ, che lấp; “tôn cao” là để vững chãi thêm trước điều kiện thử thách khắc nghiệt...Rõ ràng, đây không phải là phát ngôn cảm tính mà là hiện thực muôn thủa, điều con người có thể tri giác được bằng “tĩnh quan”.

“Cái chết của đất thì sinh ra nước” trên quan niệm sinh hoá bất tận mà Heraclit đã viết vậy. Bằng một lẽ tự nhiên, sau “đất”, Hữu Thỉnh chọn “nước” để kiến giải những uẩn khúc thẩm mỹ của mình:

Tôi hỏi nước: - Nước sống với nước như thế nào?

- Chúng tôi làm đầy nhau

 Xưa kia, con người chưa giải thích được sự sống từ vật chất vô cơ (nước) đến tiến hoá cao hơn nữa là con người, dù sao thì họ cũng đã có một quan điểm duy vật tự phát (vật hoạt luận) cho rằng nước là nhân tố đầu tiên của vũ trụ, nguồn gốc của vật chất và sự sống. Khổng Tử nói: “trí giả nhạo thuỷ” (bậc trí giả vui thích khi xem nước). Theo Cao Xuân Huy, ở người Việt Nam hình thành một triết lý sống: triết lý “Nhu đạo”. “Tính nước” là biểu trưng cho “khả năng ứng biến: một nét đặc sắc của văn hoá Việt Nam”. Đến đây, Hữu Thỉnh vẫn xây dựng cấu trúc thơ dựa trên nguyên tắc đối thoại, mạch tư duy nối tiếp, tương sinh mà không tương khắc. “Nước làm đầy nhau” – nước là hợp lưu của nhiều suy nghĩ, xúc động mà thành. “Làm đầy” cũng là một sự nâng cao nhưng trước hết là bổ khuyết, “làm đầy” thực ra là an ủi, xoa dịu, khoả lấp, làm mềm lại những tổn thất, tổn thương. Cùng một thanh khí như vậy, Hữu Thỉnh nhìn thấy nước không ở bề mặt mà ở bề sâu, chính điểm này cho thấy được bề dày của nội dung ý nghĩa.

Câu thơ tiếp theo của Hữu Thỉnh gợi nhớ đến không gian cỏ trong thơ cụ Tiên Điền, nhưng không thành cái phiên bản tinh thần của người xưa, nó hoàn toàn mới mẻ và rất hiện đại:

Tôi hỏi cỏ:  -  Cỏ sống với cỏ như thế nào?

-Chúng tôi đan vào nhau

Làm nên những chân trời

Câu thơ thứ hai mới chỉ dừng lại ở điểm, câu ba mở rộng diện. Câu hai là hiện thực, là nền tảng vững chắc của một cách thế sống bản lĩnh và tình cảm (“đan vào”). Câu ba là tương lai, khát vọng, là hệ quả của cái hạt thiện tự nhiên nhi nhiên (“làm nên”). Phải có cái gốc nhân tình vững chắc thì mới đi xa được. Một câu thơ nhưng tách ra hai dòng, hàm ý miêu tả một quá trình tự vận động. Điểm dừng, điểm hẹn dường như không xác định: “những chân trời”.

Mã số của thơ chỉ có thể cất giấu ở trong và bằng ngôn ngữ. Với bài thơ của Hữu Thỉnh, nó nằm ngay ở nhan đề tác phẩm: “hỏi”. “Hỏi” chính là động lực sáng tạo của nhà thơ, là cơ chế cảm thụ liên kết ba hình tượng kia lại thành một nội dung ý nghĩa. “Tình”, “cảnh”, “sự” ở đây, như cách nói của Lê Quý Đôn, đều “quán thông” mà phát ra lời. Hữu Thỉnh đã cúi xuống để hỏi đất, lội ngược dòng tìm nguồn để hỏi nước, bước ra không gian rộng lớn để hỏi cỏ – “đã sống với nhau như thế nào?”. Câu trả lời của tự nhiên là một lối sống, một cách ứng xử văn hoá: “tôn cao”, “làm đầy”, “đan vào” (để ) “làm nên”. Những từ ngữ này đều chung một ý nghĩa: là tương sinh chứ không hề tương khắc, tương tranh. Những hình thức sự sống của tạo vật rất cụ thể, rõ ràng, có thể thấy bằng mắt, đó là cái thật của lý lẽ. Nhưng tài năng của nhà thơ là đẩy nội hàm ý nghĩa đến với cái chân giá trị của văn chương. Những từ ngữ “tôn cao”, “làm đầy”, “đan vào”, “làm nên” chỉ thực sự sống dậy khi đi kèm với từ “sống với”. Có thể ai cũng nhìn thấy bề mặt của sự vật, nhưng không lưu tâm, không có ý thức “hỏi”. Hữu Thỉnh trầm mình xuống bề sâu, là người đầu tiên tìm và hiểu. Những câu hỏi đã được ấp ủ, thôi thúc, day dứt từ lâu, những câu trả lời – sự tự phân thân của chủ thể – không phải là sự bừng thức, bừng ngộ, bất chợt, ngẫu nhiên mà bật ra, những câu trả lời là kết quả của quá trình nội tâm hoá, qua nghiệm sinh mà đúc kết được.

Vậy nếu bài thơ dừng lại ở đây thì có được không? Dừng lại ở tiếng âm trầm, hiền hậu, lắng sâu của đất, tiếng trong trẻo thanh cao của nước, tiếng xôn xao vui vui của cỏ...dừng ở thanh âm và triết lý sống của thiên nhiên thì có được không? Cũng có thể được. Bài thơ với cấu trúc đôi câu một ấy sẽ là một ca khúc của tạo vật, mỗi khổ thơ giống như một bài thơ Haiku Nhật Bản, chỉ gồm hai đến ba câu được kết vào nhau. Và nhà thơ hiện đại sẽ mang tinh thần Thiền tông, đề cao thiên nhiên, đề cao cái đẹp đơn sơ, thô mộc, những gì tưởng là tầm thường nhỏ bé, thể hiện một thẩm mỹ quan tinh tế và cao nhã...Nhưng vậy thì có gì đáng để người đọc phải “hỏi”? Hơn nữa, mọi hiện tượng văn học đều phải đặt vào bối cảnh lịch sử – xã hội của thời đại, nhìn nó trong mối liên hệ qua lại với các hiện tượng văn hoá tinh thần khác. Thơ không đòi hỏi tác giả giải quyết được những vấn đề đương đại mà có thể chỉ là một kiến giải, thậm chí một cách đặt vấn đề còn bỏ ngỏ. Đối với thơ hiện đại, đặc biệt cần tìm hiểu những cách tân đổi mới của tác giả  so với truyền thống. Một trong những định hướng của văn chương Việt Nam sau 1975 là “học xưa để làm mới cho thơ”, được các tác giả vận dụng khá hợp lý và hiệu quả. Tính cổ điển, vẻ đẹp hài hoà, ngôn ngữ hàm súc là những tiêu chí của thơ ca mọi thời. Hữu Thỉnh gần đây đã phát biểu: “Thơ hiện đại là với một vốn ngôn từ tối thiểu mà đạt được hiệu quả tối đa. Nó đa tầng, đa thanh, mở ra nhiều vùng liên tưởng. Và nó phải là tâm trạng của ta, cách nhìn, chỗ đứng của ta trong ngày hôm nay, không thể trộn lẫn”. Bài thơ Hỏi nếu không có cái vế thứ hai trong câu nói của Hữu Thỉnh, thì dù ba khổ đầu có hàm súc, mang tinh thần truyền thống, cũng khó đạt được vế thứ nhất.

Sáu câu thơ sau đã làm liền da vết cắt ấy, vừa là một cách đưa bài thơ đến với con người đương đại, vừa bền vững trong văn mạch dân tộc:

Tôi hỏi người:

- Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:

- Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:

- Người sống với người như thế nào?

Nếu ba khổ đầu tâm trạng nhà thơ dừng lại ở thế cân bằng, cái nhìn hoà đồng, cảm thông cùng vạn vật giúp chủ thể có được cảm giác an nhiên tự tại bằng sự hoà nhập tiểu ngã và đại ngã, thì ở đoạn thơ sau, mạch thơ trở thành khắc khoải. Sự biến đổi xảy ra ở nhiều góc độ: về nội dung: thay đổi đối tượng hướng đến (từ thiên nhiên chuyển sang con người); về hình thức: khổ thơ có sáu câu, gồm ba câu hỏi lặp lại như nhau, nhưng không có câu trả lời – những câu hỏi như những điểm xoáy của hình thức tự phân thân đối thoại. Cấu trúc bài thơ thực ra là một thể đối xứng hài hoà. Nhà thơ có lẽ chủ tâm nối liền những câu hỏi để tạo mạch, tạo giọng điệu. Nhưng cũng có thể xem từng câu hỏi ở khổ sau ứng đối với mỗi câu hỏi ở phần trên. Thiên nhiên trở thành tấm gương soi cho nhân tình, đúng hơn, là kinh nghiệm đối nhân xử thế. Học tập kinh nghiệm từ thiên nhiên là vốn văn hoá được truyền từ đời này sang đời khác, qua cả ý thức và vô thức của con người. Thiên nhiên đã “sống với nhau”, “tôn cao”, “làm đầy”, “đan vào”, “làm nên” nhau...Vậy còn con người ?        

- Người sống với người như thế nào?

Hơn bao giờ hết, ý nghĩa của câu nói này đặt ra vấn đề muôn thủa của nó. “Sống với người” trước hết phải sống với mình. Sống sao cho thật là mình, sống cho đúng bản ngã của mình, sống phải với lương tâm cũng là “sống với người” xứng đáng. Sống với con người ở thời mình, giữa cõi đời lắm đa đoan và hệ luỵ. Sống với tiền nhân, với quá khứ dân tộc. “Sống với người” còn là sống trách nhiệm với hậu thế. Không có sự tự nhắc nhở, tự ý thức cao độ, không có nỗi lo hằng xuyên về tương lai của con người thì không thể có một công cuộc giá trị bền vững và lâu dài. Ai có lương tâm chẳng ao ước cho đất nước mình ngày càng phát triển, người Việt mình đẹp hơn, tốt hơn lên. Nhưng thói đời còn tồn tại biết bao nhiêu tệ bệnh khác, những gian manh, phàm tục, những chân dung biển lậu, trưởng giả, đạo đức giả, vô học...Đó là các thứ bệnh cứ trường tồn cùng nhân loại, con người còn phải chung sống lâu dài và đối mặt với nó. Không phải cứ gây ra tội lỗi mới là ác – sống bàng quan, lãnh đạm, thờ ơ trước mọi sự, cái thứ bệnh tinh thần vô cảm ấy, có khi còn đáng lo hơn. Một thế giới không tình thương, không gắn bó, mỗi cá nhân rời rạc sống với mẩu đời của mình, làm sao mơ được đến sự “tôn cao”, “làm đầy”, “làm nên”? Người làm thơ và những ai có nhân cách đều lo lắng gìn giữ cái phần “bản thiện” nguyên sơ và vĩnh cửu trong tâm hồn mỗi người, những vẻ đẹp làm chốn nương náu cho cuộc đời.

Bài thơ Hỏi được xây dựng trên quan hệ đối thoại, nhưng có cả tính chất của của lời độc thoại nội tâm. Ở đây, sự tương phản đập vào mắt người đọc: số lượng những câu hỏi đưa ra cho thiên nhiên và con người bằng nhau, giống nhau về nội dung, nhưng nếu thiên nhiên đồng vọng, trả lời từng câu hỏi, thì Con Người, ngược lại, không có câu trả lời. Tại sao lại như vậy? Vì tác giả có mục đích nhắc nhở, muốn con người tự nhận thức lại, nhìn lại mình, nghĩ về người, về đời, còn câu trả lời nằm ở mỗi người? Hay những câu hỏi như những con mắt mở trống nhìn về bao la, tìm mà không nhận được lời đáp trả, chỉ có sự im lặng đáng sợ, tàn nhẫn? Hay bản thân câu hỏi có tính đa âm, làm sao có thể trả lời cho trọn vẹn, vì vậy những lời giải sẽ ngày càng phong phú hơn, đa dạng hơn, hy vọng đó là những lời chuyển đến tích cực, dù biết rằng cái tiêu cực luôn luôn tồn tại...Thơ Hữu Thỉnh, ở những bài hay như bài thơ Hỏi đã đạt đến tính hàm súc cổ điển, với lối hành văn trí tuệ và chất cảm xúc đằm thắm, nhuần nhị. Hồn cốt dân gian, nếp cảm nếp nghĩ gắn bó với truyền thống ai đọc cũng thấy thân quen như tự những câu thơ đã nằm trong trí nhớ từ lâu.

 

Fidelia

24/11/2023

nguyen toanBài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh là một tác phẩm văn học đầy tình cảm và sâu sắc. Em cảm nhận rằng bài thơ này mang đến cho người đọc một cảm giác trầm lắng và suy tư.

Từng câu thơ trong bài thơ được xây dựng một cách tỉ mỉ và chính xác, tạo nên một không gian tĩnh lặng và lắng đọng. Tác giả sử dụng ngôn ngữ tinh tế và hình ảnh tượng trưng để diễn tả những suy nghĩ sâu xa và những câu hỏi về cuộc sống, tình yêu và ý nghĩa của tồn tại.

Bài thơ "Hỏi" cũng khá trừu tượng, không có một ý nghĩa rõ ràng và duy nhất. Điều này tạo ra sự mở cửa cho mỗi người đọc tự tìm hiểu và suy ngẫm về ý nghĩa của bài thơ theo cách riêng của mình. Bài thơ này khơi gợi sự tò mò và khám phá, đồng thời khám phá sâu hơn về bản thân và cuộc sống.

Tóm lại, bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh là một tác phẩm văn học đầy tinh tế và sâu sắc, mang đến cho người đọc cảm giác trầm lắng và suy ngẫm về cuộc sống và ý nghĩa của nó.

nguyen toan

Hữu Thỉnh là một cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là người viết nhiều, viết hay về cuộc sống ở nông thôn, thơ ông giản dị nhưng vô cùng tinh tế và sâu sắc. Xuyên suốt sự nghiệp làm văn, ông đã mang đến cho kho tàng văn học nước nhà những tác phẩm lớn như: “ Thương lượng với thời gian”, “ Sang thu” hay “ Âm vang chiến hào”, đồng thời bài thơ “ Hỏi” sáng tác năm 1992, in trong tập “Thư mùa đông” cũng là một áng văn khiến tên tuổi ông càng thêm sâu đậm trong lòng độc giả. Bài thơ là những chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời, qua những câu thoại giữa tác giả với thiên nhiên đã dẫn đến quan niệm sâu sắc của Hữu Thỉnh về cách sống giữa người với người.


Hữu Thỉnh sinh ra trong chiến tranh và cũng lớn lên trong chiến tranh. Dường như ông đã quá hiểu và nhìn thấu con người trong thời kỳ bom rơi đạn nổ, khi mà mọi số phận đều phải nương tựa nhau mà sống. Ông đã chứng kiến con người thương nhau, nhường nhau từng hạt gạo, bát cơm, nhìn thấy những người mẹ già lưng còng cặm cụi nấu cơm nuôi bộ đội. Cho mãi đến sau này, hòa bình trải dài trên khắp quê hương, thì sự đùm bọc, gắn kết giữa những con người đất Việt vẫn tròn vẹn, ấm áp, trở thành nếp sống, thành một nét tính cách đáng trận trọng của dân tộc Việt Nam. Cũng từ đó mà hồn thơ Hữu Thỉnh luôn trân quý và nâng niu cách sống ấy, đưa vào những vẫn thơ của chính mình để chiêm nghiệm và ngợi ca, giúp nó trường tồn mãi với thời gian.


Đến với sáu câu thơ đầu, tác giả đã đưa đến những cảm nhận của bản thân về cách sống của đất, nước, cỏ một cách sáng tạo và mới lạ hơn bao giờ hết :


“Tôi hỏi đất: Đất sống với đất như thế nào?


- Chúng tôi tôn cao nhau


Tôi hỏi nước: Nước sống với nước như thế nào?


- Chúng tôi làm đầy nhau


Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào?


- Chúng tôi đan vào nhau


Làm nên những chân trời”


Bằng biện pháp nhân hóa và hình thức đối thoại, đoạn thơ trên đã đưa người đọc đến các kết luận về cách sống của thiên nhiên: “ tôn cao nhau”, “làm đầy nhau” và “đan vào nhau”. 


Với “đất”, tác giả dùng từ “tôn cao” như muốn nhắc đến sự tôn trọng, trân quý lẫn nhau giữa người với người. “Đất” tuy thấp nhưng luôn đề cao lẫn nhau, bồi đắp cho nhau nên mới có núi, có đồi. Con người cũng thế, sống trong cộng đồng cần tôn trọng, nâng đỡ và nương tựa vào nhau mà sống. Cuộc đời lắm điều đắng cay nhưng giữa cái đắng cay ấy sẽ thật hạnh phúc nếu như có những người thiện lương cho ta những thứ ngọt ngào. Trên dòng đời tấp nập vội vã, ta sẽ luôn mong gặp được một tấm lòng ấm áp, một đôi tay xa lạ nhưng chẳng ngần ngại chìa về phía ta. Trong mắt Hữu Thỉnh, con người cũng sống như đất, cho dù thấp bé cũng không vì cái “tôi” cá nhân mà đánh đổ lợi ích của cái “ta” chung. Có như vậy, con người mới xây dựng được cộng đồng vững vàng, thiên nhiên mới có những thắng cảnh hùng vĩ mà người người ao ước được chiêm ngưỡng.


Đến với dòng nước, tác giả lại lần nữa đặt câu hỏi: “Nước sống với nước như thế nào?”. Từ đó, đưa độc giả đến câu trả lời của nước chính là “đan vào nhau”. Biện pháp nhân hóa tài tình khiến cho những thông điệp ẩn trong câu thơ càng dễ đi vào lòng người. Cụm từ “ đan vào nhau” cho ta cảm giác về sự lấp đầy, từ đó nói lên rằng chẳng ai sinh ra là hoàn hảo cả, luôn phải biết giúp đỡ nhau hoàn thiện bản thân, cùng nhau lấp đầy những khoảng trống của chính mình. Con người cũng như nước, chẳng nên bới móc những điều không hoàn hảo của nhau để dìm nhau xuống đáy sâu mà hòa vào tập thể, che lấp đi những thiếu sót của nhau bằng sự bao dung. Từ đó, dòng nước trở thành những dải sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời còn con người thì cùng nhau hoàn thiện, cùng nhau trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình rồi tỏa sáng rực rỡ khi chạm vào ước mơ của bản thân.

Cuối cùng, Hữu Thỉnh dẫn dắt ta đến với câu trả lời của “cỏ” là “đan vào nhau”. Câu trả lời của “cỏ” nhấn mạnh vào tình đoàn kết, gợi cho ta về câu ca dao quen thuộc :


“ Một cây làm chẳng nên non


Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”


Cỏ là như vậy đấy, cọng cỏ bé nhỏ mọc ven đường riêng lẽ thì người ta chẳng tiếc gì mà dẫm lên, suốt đời nó chỉ mãi được gọi là cỏ dại mà thôi. Nhưng khi chúng cạnh nhau, kết nối, đan xen vào nhau, chúng tạo nên những “dải lụa xanh” tuyệt đẹp mà người người khát khao được ngắm nhìn. Chính con người cũng thế, “đoàn kết là sức mạnh” nên cần chung sức để tạo ra những điều dường như không thể. Những người cùng chung một tập thể cần có sự kết nối vững vàng để cùng nhau hướng đến một giá trị to lớn hơn. Con người cũng như ngọn cỏ, khi đơn độc luôn sợ bị quật đổ bởi gió lớn nhưng khi những ngọn cỏ nhỏ bé đã kết thành thảo nguyên xanh mướt thì ngọn gió chỉ làm cho chúng như đang nhảy múa dưới bầu trời mà thôi...


Kết thúc cuộc đối thoại với thiên nhiên, mạch thơ nhẹ nhàng êm ắng dừng lại ở đó. Nhà thơ bắt đầu đưa độc giả đến với những chiêm nghiệm sâu sắc và trực tiếp hơn về cách sống của con người:


“Tôi hỏi người:


- Người sống với người như thế nào?


Tôi hỏi người:


- Người sống với người như thế nào?


Tôi hỏi người:


- Người sống với người như thế nào?”


Tác giả đã lặp lại đến ba lần câu thơ của mình, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, mạch thơ trở nên khắc khoải. Thật lạ thay, Hữu Thỉnh tuy đã đặt câu hỏi đến ba lần nhưng ông chẳng hề đưa ra câu trả lời nào cho cách sống giữa người với người. Phải chăng tác giả muốn nói rẳng con người sống cũng như “đất”, như “nước”, như “cỏ”, luôn tôn trọng lẫn nhau, giúp đỡ, bù đắp và đoàn kết với nhau ?


Có ý kiến cho rằng : “Hữu Thỉnh đã “đưa thơ về với cuộc sống thường nhật”, khám phá bí ẩn thẳm sâu trong tâm hồn con người bằng những suy tư chân thật tự đáy lòng mình”. Thật vậy, tuy là một bài thơ đơn giản nhưng chứa đựng lắm suy tư: con người sống với nhau thế nào ? Cuộc đời muôn hình vạn trạng, thế giới hàng tỉ người, mỗi người có một đức tin và bản ngã của riêng mình. Vậy nên, “người sống với người” chính là sống thật với cái tôi của chính mình, sống đẹp, sống đúng với đạo đức và lương tâm của bản thân.


Bài thơ là lời nhắc nhở, khuyên nhủ mỗi người phải sống có trách nhiệm với cộng đồng, sống như thiên nhiên, cây cỏ - thật xanh, thật đẹp, thật vững vàng. Mạnh dạn né tránh những điều xấu xa, vị kỷ, thói gian manh phàm tục hay sự thờ ơ, lạnh nhạt với đồng loại. Đây còn là thông điệp gửi gắm đến độc giả, nhắc nhở chúng ta hãy nhìn nhận lại chính mình, nhìn lại thái độ và cách sống của mình để điều chỉnh sao cho phù hợp với luân thường đạo lý. Và cũng thật đẹp khi lời thơ của Hữu Thỉnh còn vang vọng âm hưởng câu ca dao từ ngàn xưa :


“Nhiễu điều phủ lấy giá gương


Người trong một nước phải thương nhau cùng”


Đó là bài học, là lẽ sống đích thực của cha ông ta từ bao đời nay. Sống đúng là sống vị tha, đoàn kết; sống đùm bọc, bao dung mới là cách sống đáng tôn thờ. Như trong tác phẩm “ Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân từng viết về hình ảnh bà cụ Tứ - người mẹ hiền từ, nhân hậu, ngay cả khi đang bên bờ vực của cái đói, cái chết, bà cụ không ngần ngại mà đưa tay cứu vớt thị, bà cụ chẳng hề tuôn một câu nào nhằm hắt hủi người đàn bà tội nghiệp kia. Qua đó, ta thấy rằng, những cảm nhận và chiêm nghiệm của Hữu Thỉnh về cách sống con người chính là vấn đề muôn thuở luôn được đặt ra và tôn vinh xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của xã hội cũng như của văn học. 


Bằng nghệ thuật nhân hóa, phép điệp ngữ, hình thức đối thoại độc đáo đầy sáng tạo, Hữu Thỉnh đã cho người đọc một cơ hội để nhìn nhận bản thân, nhìn nhận cuộc sống. Những dòng thơ hàm súc và đầy ý nghĩa ấy là sự tôn vinh của nhà thơ đối với lối sống đẹp của con người, đồng thời cũng là lời nhắc tới những cá nhân đang sống lệch lạc và thiếu trách nhiệm.


Dù trải qua dòng chảy khắc nghiệt của thời gian, nhưng những vần thơ nhẹ nhàng mà hàm súc trên cùng những suy tư sâu lắng mà nó mang lại thật khó phai trong lòng độc giả. Nó như dòng suối vô tận cứ tuôn mãi, tuôn mãi trong tâm thức mỗi người, nhắc nhớ phải sống đúng với bản ngã của chính mình.

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

right Đặt câu hỏi ngay

Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản miễn phí!

Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn

LIÊN KẾT

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)

Copyright © 2025 fqa.vn All Rights Reserved