logo fqa gpt

banner fqa app
Tải APP FQA Hỏi & đáp bài tập
Tải ngay
minh nguyễn

26/12/2023

Bạn biết chăng, thế gian này có điều kì diệu, đó là không ai có thể là bản sao 100% của ai cả. Bởi thế, bạn là độc nhất, tôi cũng là độc nhất. Chúng ta là những con người độc nhất vô nhị, dù ta đẹp hay xấu, tài năng hay vô dụng, cao hay thấp, mập hay ốm, có năng khiếu ca nhạc hay chỉ biết gào như vịt đực. Vấn đề không phải là vịt hay thiên nga. Vịt có giá trị của vịt, cũng như thiên nga có giá trị của thiên nga. Vấn đề không phải là hơn hay kém, mà là sự riêng biệt. Và bạn phải biết trân trọng chính bản thân mình. Người khác có thể đóng góp cho xã hội bằng tài kinh doanh hay năng khiếu nghệ thuật, thì bạn cũng có thể đóng góp cho xã hội bằng lòng nhiệt thành và sự lương thiện. Bạn có thể không thông minh bẩm sinh nhưng bạn luôn chuyên cần và vượt qua bản thân từng ngày một. Bạn có thể không hát hay nhưng bạn không bao giờ là người trễ hẹn. Bạn không là người giỏi thể thao nhưng bạn có nụ cười ấm áp. Bạn không có gương mặt xinh đẹp nhưng bạn rất giỏi thắt cà vạt cho ba và nấu ăn rất ngon. Chắc chắn, mỗi một người trong chúng ta đều được sinh ra với những giá trị có sẵn. Và chính bạn hơn ai hết phải biết mình, phải nhận ra những giá trị đó”. (Bản thân chúng ta là những giá trị có sẵn - Phạm Lữ Ân) Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào? Nghị luận Câu 2. Luận đề trong văn bản trên là gì ? Câu 3. Đoạn văn thứ 3 được triển khai theo cách nào? A. Diễn dịch B. Quy nạp C. Song song D. Phối hợp Câu 4. Nghĩa của thành ngữ “ độc nhất vô nhị” là:ko có cái giống nó Câu 5. Trong các nhóm từ sau , đâu là nhóm từ Hán Việt? A. tài năng, vô dụng, thông minh, vượt qua B. tài năng, chuyên cần, vô dụng, bẩm sinh C. tài năng, vô dụng, thông minh, ấm áp D. tài năng, vô dụng, thông minh, cà vạt Câu 6. Điều kì diệu mà tác giả nói tới trong văn bản trên là gì? Câu 7. Phần in đậm trong văn bản trên sử dụng biện pháp tu từ gì? A. Ẩn dụ B. Đảo ngữ C. Điệp ngữ D. So sánh Câu 8. Câu văn “ Bạn có thể không hát hay nhưng bạn không bao giờ là người trễ hẹn.” có vai trò gì trong đoạn văn? A. Lí lẽ B. Dẫn chứng C. Vừa là lí lẽ vừa là dẫn chứng D. Luận điểm Trả lời các câu hỏi sau Câu 9. Nêu thông điệp mà tác giả muốn gửi đến chúng ta qua văn bản ? Câu 10. Vấn đề mà văn bản đề cập đến có ý nghĩa như thế nào với em? Phần II: Viết (4 điểm). Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng mà em thích nhất.
Trả lời câu hỏi của minh nguyễn
right
Viết câu trả lời

Làm sao để có câu trả lời hay nhất?

  • Luôn có GIẢI THÍCH các bước giải
  • Không copy câu trả lời của Timi
  • Không sao chép trên mạng
  • Không spam câu trả lời để nhận điểm
  • Spam sẽ bị khóa tài khoản
CÂU TRẢ LỜI
Timi

26/12/2023

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Câu 1: Văn bản trên thuộc thể loại nào? Đáp án: Nghị luận. Câu 2: Luận đề trong văn bản trên là gì? Đáp án: Luận đề trong văn bản trên không được đề cập rõ ràng. Câu 3: Đoạn văn thứ 3 được triển khai theo cách nào? Đáp án: A. Diễn dịch. Câu 4: Nghĩa của thành ngữ "độc nhất vô nhị" là gì? Đáp án: "Độc nhất vô nhị" có nghĩa là không có ai giống hoàn toàn. Câu 5: Trong các nhóm từ sau, đâu là nhóm từ Hán Việt? Đáp án: B. tài năng, chuyên cần, vô dụng, bẩm sinh. Câu 6: Điều kì diệu mà tác giả nói tới trong văn bản trên là gì? Đáp án: Điều kì diệu mà tác giả nói tới trong văn bản trên không được đề cập rõ ràng. Câu 7: Phần in đậm trong văn bản trên sử dụng biện pháp tu từ gì? Đáp án: A. Ẩn dụ. Câu 8: Câu văn "Bạn có thể không hát hay nhưng bạn không bao giờ là người trễ hẹn." có vai trò gì trong đoạn văn? Đáp án: B. Dẫn chứng. Câu 9: Nêu thông điệp mà tác giả muốn gửi đến chúng ta qua văn bản? Đáp án: Tác giả muốn gửi thông điệp rằng mỗi người chúng ta đều có giá trị riêng biệt và cần biết trân trọng bản thân mình. Câu 10: Vấn đề mà văn bản đề cập đến có ý nghĩa như thế nào với em? Đáp án: Ý nghĩa của vấn đề mà văn bản đề cập đến là khuyến khích mọi người nhận ra giá trị của bản thân và đóng góp cho xã hội theo cách riêng của mình.
Minhphuong111

26/12/2023

Câu trả lời uy tín

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại văn bản Nghị luận 

Câu 2. Luận đề trong văn bản trên là gì ? Mỗi người sinh ra có một giá trị riêng biệt

Câu 3.  B. Quy nạp 

Câu 4. Nghĩa của thành ngữ “ độc nhất vô nhị” là: duy nhất, độc đáo, chỉ có một không có hai

Câu 5.  B. tài năng, chuyên cần, vô dụng, bẩm sinh 

Câu 6. Điều kì diệu mà tác giả nói tới trong văn bản trên là Không ai có thể là bản sao 100% của ai cả

Câu 7.  C. Điệp ngữ 

Câu 8.  B. Dẫn chứng

Câu 9. Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến chúng ta qua văn bản : Mỗi con người đều có những giá trị tốt đẹp riêng, hãy biết trân trọng giá trị đó

Câu 10. - Vấn đề mà văn bản đề cập đến có ý nghĩa như một bài học giúp em nhận biết được giá trị của bản thân so với những người khác, không vì thấy mình không giống người ta thì lại có những suy nghĩ tiêu cực, bắt chước họ để trở thành một phiên bản “Copy”. 

Phần II: 

Sinh ra và lớn lên trong buổi đất nước ta gặp cơn sóng dữ của thời đại đến từ phương Tây, khiến cho thuần phong mĩ tục của một nước thuần phong kiến được xây dựng cả ngàn năm bị rung chuyển. Trần Tế Xương đã xuất sắc biến ngòi bút của mình thành thứ vũ khí sắc bén để bảo vệ chút nào đó nền văn hóa truyền thống dân tộc. Ông đã chọn cách biến bút pháp của mình thành bút pháp trào phúng, để châm biếm, lên án cái xã hội với cái văn hóa lai căng đương thời. Điều đó đã thể hiện rõ nét qua tác phẩm thơ nổi tiếng của ông “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”.

Câu thơ đầu tiên, Tế Xương khẳng định sự quý trọng, hiếm hoi của khoa thi - ước mơ của bao sĩ tử nước ta lúc bấy giờ:

“Nhà nước ba năm mở một khoa”

Ba năm một lần, khoa thi tuyển chọn nhân tài cho đất nước được mở ra cho các thanh niên tài tử muốn đem tri thức ra để giúp nước giúp đời có cơ hội thể hiện mình. Trong bề dày lịch sử gần một ngàn năm phong kiến, đây vẫn là con đường tiến thân lập nghiệp quen thuộc của những sĩ tử “bụng đầy chữ thánh Hiền”. Sự trang trọng, quy mô của sự kiện này là không phải bàn cãi. Thế nhưng, khoa thi mà nhà thơ miêu tả lại của năm Canh Dậu, lại có gì đó thật khác, thật kì lạ:

“Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”

Từ “lẫn” gợi sự lẫn lộn, thiếu rành rọt, rõ ràng, thiếu sự nghiêm túc, trang nghiêm. Tựa như người dân ta vẫn dùng từ lẫn cho mớ rau, mớ vải. Nay nhà thơ lại sử dụng cho các sĩ tử đến từ những nơi chuyên đào tạo nhân tài. Sĩ tử nơi này lẫn với sĩ tử nơi kia. Cách dùng này khiến các nhân tài nước Nam ta trở nên kém phần quan trọng, trở nên tầm thường như mớ ra, mớ vải ở ngoài chợ. Nhưng vì sao tác giả lại tả về các đồng môn bằng sắc thái đó? Điều này đã thể hiện rõ ở ngay hai câu thơ sau:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ”

Tính từ “lôi thôi’ được đưa lên ngay đầu câu bằng thủ pháp đảo ngữ, nhằm nhấn mạnh dáng vẻ thiếu nghiêm túc, đứng đắn của các vị sĩ tử. Đến với hội thi ba năm mới mở một lần, các hiền tài đến từ các vùng miền chuẩn bị cho bản thân một dáng vẻ lôi thôi thì thật đáng buồn và chê trách. Sự xuất hiện của những lọ nước khoác trên vai, khiến họ càng thêm ì ạch, di chuyển lạch bạch. Dáng vẻ của những bậc nam nhi lòng mang chí lớn, mà lại luộm thuộm, lôi thôi chẳng khác gì người dân buôn bán mưu sinh ngoài chợ. Cũng bởi vậy, mà nhà thơ lại dùng từ lẫn khi khắc họa trưởng thi năm Canh Dần.

Nổi bật hơn cả thí sinh, chính là những vị quan lớn, bộ mặt của triều đình, của chính quyền trong trường thi:

“Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”

Quan trường - người đứng đầu khoa thi xuất hiện với âm thanh “ậm ọe”. Một lần nữa, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp đảo ngữ để thể hiện sự châm biếm sâu sắc với dáng vẻ của một vị quan lớn. Ậm ọe là âm thanh nạt nộ, hăm dọa. Một vị quan lớn, mà xuất hiện bằng cái âm thanh chua chát đi đằng trước, thật thiếu đi sự oai nghiêm cần có. Ông ta đến trường thi để trông thi - quản lí những sĩ tử bụng đầy kinh thư. Vậy mà lại phải hăm dọa, phải nạt nộ. Hình ảnh đó đã gián tiếp khẳng định sự lộn xộn trong tác phong của các sĩ tử. Rõ là người có học thức, mà hành động thì nhếch nhác, chẳng có chút gì nho nhã. Xứng với các sĩ tử đó, là một viên quan coi thi “to mồm gào rống” như đang giải tán đám đông ở chợ. Sự phối hợp nhịp nhàng của hai nhóm người đó “giúp” cho trưởng thi mất hẳn sự nghiêm trang, trịnh trọng cần có. Bối cảnh trưởng thi cũng nhở vậy mà trở thành một bức tranh lộn xộn, nhếch nhác đến không thể nhìn thẳng.

Sự châm biếm của nhà thơ chẳng hề dừng lại ở đó. Bởi ngay sau quan trường là sự xuất hiện của quan sứ và mụ đầm. Đây là hai nhân tố rất mới - đại diện cho hơi thở của văn hóa phương Tây đang xâm lấn nghiêm trọng. Họ xuất hiện một cách hiên ngang giữa trường thi - đất học linh thiêng của văn hóa phong kiến. Sự xuất hiện ấy thật kệch cỡm và nhố nhăng với lọng che rợp trời và vạt váy dài lê quét đất. Trường thi vốn là nơi linh thiêng, mang ý nghĩa văn hóa, chính trị quan trọng của cả một dân tộc vậy mà nay lại trở thành sân chơi cho những kẻ hợm hĩnh, kệch cỡm của nước ngoài. Họ mang theo thứ văn hóa lai căng đó vào làm cả cái trường thi vốn đã lộn xộn, nhếch nhác về hình thức, nay bỗng trở thêm càng lẫn lộn, nhố nhăng về ý nghĩa, bản chất.

Điều đó khiến một sĩ tử chân chính với lòng khát cầu giúp nước cứu dân như Tế Xương vô cùng đau lòng. Là một sĩ tử đi qua nhiều cuộc thi, từ thời các khoa thi vẫn vô cùng trang nghiêm, cho đến dáng vẻ kệch cỡm hiện nay, làm sao mà không đau lòng được. Có thể nói, chính ông đã nhận ra và cảm nhận sự thay đổi theo chiều hướng đi xuống đáy vực của nền thi cử nước nhà sâu sắc hơn bất kì ai. Cũng bởi vậy, mà nhờ thơ cay đắng thốt lên rằng:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!”

Đây là lời than thở đầy xót xa, tủi nhục, cay đắng và cũng vô cùng bất lực của chính nhà thơ. Nhân tài đất Bắc từng là những ông nghè, ông cống, những người có tài có chữ. Tuy có thể nghèo về vật chất nhưng luôn giàu chữ nghĩa, giàu lòng tự tôn, giàu tinh thần dân tộc. Ấy vậy mà giờ đây, ngay giữa Thăng Long ngàn năm văn hiến, ngay giữa trưởng thi - nơi hội thụ hiền tài cho đất nước lại trở thành nơi cho thứ văn hóa lai căng, kệch cỡm chiếm cứ. Từ phiếm chỉ “nào ai đó” đã hướng tới một nhóm đối tượng cụ thể trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là những nhân tài đất Bắc chân chính, còn giữ tấm lòng vì nước vì dân, còn biết xấu hổ trước cảnh nước nhà bị đô hộ, biết nhục nhã trước cảnh văn hóa dân tộc bị văn hóa phương Tây làm nhơ nhuốc. Động từ “ngoảnh cổ” được đưa lên đầu câu thơ, nhấn mạnh một cách dứt khoát của điều nên làm. Đó không chỉ là cái quay đầu của một bộ phận cơ thể, mà là sự nhìn về quá khứ, nhìn về lịch sử nghìn năm văn hiến huy hoàng của dân tộc. Để thấy được cái dáng vẻ kệch cỡm, nhếch nhác của hiện tại. Hành động ngoảnh cổ, là hành động chỉ xoay phần đầu, còn cơ thể thì giữ nguyên. Chi tiết đó cho thấy sự mắc kẹt ở hiện tại đau khổ, bẽ bàng của Tế Xương - một sĩ tử đương thời. Ông không cam tâm, ông không chấp nhận trở thành một trong những kẻ lôi thôi, nhục nhã ở ngoài đó. Chính vì vậy, Tế Xương đã khắc họa lại cảnh khoa thi năm Đinh Dậu với giọng điệu châm biếm sâu cay.

Ngôn ngữ trào phúng của Tế Xương không trữ tình như của Hồ Chí Minh, mà vô cùng sắc bén, góc cạnh. Ông đay nghiến những cái kệch cỡm, lai căng, nhếch nhác của hiện thực, để thể hiện trực tiếp thái độ của mình. Không chỉ trào phúng người, Tế Xương còn tự trào chính mình. Trào một sĩ tử chẳng thể làm gì giúp ích cho đời, chẳng thể nào xoay chuyển càn không, khôi phục cảnh huy hoàng trong quá khứ. Hiện thực nhố nhăng, nhốn nháo của trường thi mà Tế Xương tham gia đã toát lên những cay đắng, tủi nhục chất chứa như núi trong lòng nhà thơ. Đó chính là cách mà Trần Tế Xương thể hiện nỗi lòng và hồn thơ trào phúng của mình vào “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”.

 

Tú Xương là một nhà thơ trào phúng. Ông có nhiều tác phẩm, trong đó phải kể đến bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (hay còn gọi là Vịnh khoa thi Hương). Bài thơ có nhiều giá trị nội dung và nghệ thuật.

“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”

Việc thi cử được tổ chức nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp vua. Nhưng trong hoàn cảnh thực dân Pháp xâm lược, nắm giữ chính quyền thì việc thi cử đã có nhiều thay đổi. Dù vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng kì thi lại hết sức hỗn tạp: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Ở Bắc Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi ở Hà Nội. Nhưng thực dân Pháp đã đánh chiếm Hà Nội, cho bỏ trường thi ở Hà Nội. Các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định. Hoàn cảnh éo le được thể hiện trong hai câu thơ đầu đã góp phần tạo nên tiếng cười châm biếm.

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”

Ở hai câu thơ tiếp, hình ảnh “sĩ tử” được khắc họa. Họ là tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, đi theo nghiệp bút nghiên ở thời xưa. Khi nhắc đến “sĩ tử”, chúng ta sẽ hình dung về những người thường có phong thái nho nhã, điềm tĩnh. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” trong bài thơ lại được miêu hiện lên với vẻ lôi thôi, nhếch nhác. Còn khung cảnh trường thi vốn là nơi trang nghiêm mà giờ chẳng khác nào cảnh họp chợ, viên quan coi trường thi thì “ậm oẹ” và “thét loa” - nhốn nháo không khác gì nơi chợ búa.

“Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”

Việc tiếp đón những kẻ cướp nước chẳng biết lúc nào lại trở nên trang trọng nhưng khôi hài như vậy. Đặc biệt hơn cả là việc tác giả miêu tả hình ảnh mụ đầm. Theo quan điểm lễ giáo phong kiến thì trọng nam khinh nữ. Phụ nữ không được những nơi trang nghiêm như trường thi. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” khiến ta thêm nức cười đó mà cũng thật xót xa. Xã hội phong kiến đã suy tàn, thoái hóa đến mức nào.

Hai câu thơ cuối thể hiện suy nghĩ, tâm trạng của Tú Xương trước cảnh ngộ đất nước lúc bấy giờ:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”

Câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” nhưng không nhằm mục đích biết câu trả lời. Tác giả muốn thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.

Bài thơ được sáng tác theo thể thơ thất ngôn bát cú, sử dụng giọng điệu châm biếm, các biện pháp tu từ góp phần thể hiện nội dung của bài thơ.

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một trong những bài thơ tiêu biểu của Tú Xương. Tác phẩm giàu giá trị nội dung, mang đậm phong cách sáng tác của nhà thơ.

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

right Đặt câu hỏi ngay

Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản miễn phí!

Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn

LIÊN KẾT

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)

Copyright © 2025 fqa.vn All Rights Reserved