
11/01/2024
Làm sao để có câu trả lời hay nhất?

11/01/2024

11/01/2024

Các nhà thơ, nhà văn được coi là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, thật vậy, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng là một trong số các tác giả như thế. Ông đã dùng ngòi bút sắc nhọn của mình để chĩa thẳng mũi súng căm thù vào quân xâm lăng, bài thơ “Chạy Tây” hay còn có cái tên khác là "Chạy giặc" là một trong những bài thơ khắc họa khung cảnh khi quê hương bị thực dân Pháp xâm lược, đó cũng là lời tố cáo của Nguyễn Đình Chiểu về tội ác của chúng.
Bài thơ được viết sau khi thực dân Pháp tấn công vào thành Gia Định - quê hương của nhà thơ (17/2/1859). Chứng kiến cảnh tượng ấy, ông không khỏi xót xa. Là một người yêu quê hương, dân tộc có ai lại không đau đớn khi mảnh đất máu thịt bị xâm chiếm, nhân dân bị áp bức tàn bạo.
Hai câu thơ đầu bài thơ đã mở ra hiện thực đất nước đầy đau thương:
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay".
Thời điểm bắt đầu cuộc tấn công của thực dân Pháp vào Gia Định là thời điểm "tan chợ". Mọi người trong phiên chợ vừa mới bước chân ra về thì tiếng súng bắt đầu nổ. Chắc hẳn nơi ấy đã diễn ra trận càn quét của quân địch. Tiếng súng vang lên như xé tan cuộc sống yên ổn nơi đây vốn có, thay vào đó là sự lo sợ bởi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. "Tiếng súng Tây" là tiếng súng của thực dân Pháp. Phép ẩn dụ bàn cờ phút "sa tay" ám chỉ triều đình đã để thành Gia Định rơi vào tay giặc. Nói cách khác, quân thực dân đã xâm chiếm được đất Gia Định.
Cảnh chạy giặc của nhân dân được tác giả miêu tả chi tiết mà đau xót biết nhường nào:
"Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay".
Đảo ngữ "bỏ nhà" và "dáo dác" giàu sắc thái biểu cảm khiến cho câu thơ nhuốm màu bi thương. Tiếng súng phát ra như báo trước một điều không hay sẽ xảy đến. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nhiều từ ngữ có khả năng gợi hình cao cùng phép đảo ngữ khiến người đọc có thể hình dung ra sự chết chóc, hoang tàn mà tác giả miêu tả. Đám trẻ con chạy không định hướng vì không có người dẫn dắt. Chúng chạy một cách thất thần để tránh sự nguy hiểm đang ập tới. Không chỉ có con người hoảng loạn, những loài vật như đàn chim cũng bay một cách hốt hoảng, không phương hướng vì bị mất ổ, mất nơi cư trú. Từ láy "lơ xơ" và "dáo dác" đã gợi tả một khung cảnh tan tác, mọi thứ bị đảo lộn vì tiếng súng. "Lũ trẻ" là những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, vô tội. Đáng lẽ chúng phải được hưởng cuộc sống thanh bình, no ấm nhưng sự xâm lược của thực dân đã khiến tuổi thơ của những đứa trẻ phải sống trong sợ hãi.
Hiện lên trước mắt người đọc còn là cảnh tượng chết chóc, điêu tàn:
"Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây".
Miền Nam đang chìm trong khói lửa nghi ngút. Thành Gia Định và miền Đông Nam Bộ đã chìm trong ngọn lửa. Đi đến đâu, quân địch thực hiện càn quét, cướp bóc, giết hại dân lành đến đấy. Hành động của chúng vô cùng tàn ác, gây bao thiệt hại cho nhân dân ta. Bến Nghé hay Đồng Nai đều rơi vào tình trạng tiền của, tài sản tan nhanh chóng như bọt nước. Những tội ác của thực dân Pháp đã được diễn đạt qua hai câu thơ có sức khái quát lớn. Nhưng những tang tóc, đau thương nhân dân ta phải gánh chịu còn nhiều hơn thế gấp nhiều lần. Đến cả những gì vô tri vô giác như con rạch, con sông cũng ngùn ngụt chí căm thù. Các ngôi nhà đổ vỡ, ngập chìm trong lửa đốt. Phải chứng kiến cảnh tượng những mái nhà bị thiêu cháy, tiền bạc của mình bỗng chốc tiêu tan có mấy ai không xót xa?
Trước cảnh tượng tàn khốc như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã cất lên câu hỏi đầy mỉa mai:
"Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này".
Câu hỏi tu từ đã lột tả được khung cảnh tan tác, hoảng loạn khi nhân dân chạy giặc. Đây là câu hỏi không chỉ của riêng ông mà còn là câu hỏi của nhân dân nói chung đối với triều đình phong kiến lúc bấy giờ. Nhân dân lầm than, khổ cực, rất cần một con đường giải thoát, chống lại ách áp bức nhưng "trang dẹp loạn" lại vắng bóng. Vua quan, triều đình nhà Nguyễn đi đâu vắng lại không xuất hiện và cứu giúp nhân dân đang chịu cảnh cơ cực?
Hai câu thơ cuối không chỉ thể hiện sự xót thương của tác giả trước cảnh nước mất nhà tan mà còn bộc lộ thái độ căm thù giặc sâu sắc, sự thất vọng khi triều đình không chăm lo cho cuộc sống nhân dân mà họ còn nhu nhược, bắt tay với thực dân Pháp. Sự hèn nhát của triều đình, của những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước, chăm lo cho cuộc sống nhân dân thật đáng mỉa mai, khinh bỉ. Sự bất lực của nhà Nguyễn đã khiến nhân dân ta rơi vào cảnh điêu đứng, không lối thoát. Câu hỏi tu từ đó cũng nhằm mục đích thức tỉnh những người con yêu nước đứng lên chống lại sự đô hộ, mang lại cuộc sống ấm no cho "dân đen".
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có kết cấu đề - thực - luận - kết chặt chẽ. Là một người con của đất Gia Định nên ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Đình Chiểu mang đậm màu sắc Nam Bộ. Bút pháp hiện thực - trữ tình được tác giả vận dụng rất triệt để và đạt hiệu quả cao. Ẩn chứa đằng sau bức tranh "Chạy giặc" là tấm lòng yêu nước thương dân sâu nặng.
Nguyễn Đình Chiểu không chỉ miêu tả chân thật cảnh tượng đất nước bị quân thực dân chà đạp, giày xéo mà còn thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tuy rằng ông bị mù lòa, không thể trực tiếp ra trận nhưng ngòi bút chiến đấu của ông vô cùng sắc sảo. Bài thơ "Chạy giặc" là một bài thơ tiêu biểu của văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX, là lời tố cáo đanh thép, hùng hồn về tội ác của thực dân Pháp.

10/09/2025
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông là gương mặt tiêu biểu của nhân dân Nam Bọ trong phong trào thơ ca yêu nước chống quân xâm lược. Những tác phẩm của ông thường có tính đấu tranh vô cùng mạnh mẽ. Phê phán và lên án sự tàn bạo của quân thực dân xâm lược. Bài thơ “Chạy giặc” là một tác phẩm điển hình cho phong cách thơ của ông.
Bài thơ dường như đã tái hiện được khung cảnh xã hội. Việt Nam trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, với những sự hoang tàn, bi đát. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích và nghị luận bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu.
Thực dân Pháp đô hộ nước ta vào những năm 1958. Chúng đã thể hiện sự bành trướng của mình, khiến cho nhân dân ta lâm vào cảnh khổ cực khốn cùng. Trước những cảnh đau thương thương tang tóc này. Nguyễn Đình Chiểu đã không khỏi đau xót thương tâm. Lòng yêu nước trỗi dậy, sự căm thù quân xâm lược càng dâng cao. Và trong cái tình cảnh ấy, ông đã sáng tác bài thơ “Chạy giặc” như là một sự minh chứng về thời kỳ lầm than của dân tộc ta trong bối cảnh hỗn loạn. Bài thơ cũng thể hiện sự căm thù đến tột cùng đối với quân xâm lược tàn bạo.
Mở đầu bài thơ là một sự tái hiện về những tiếng súng dữ dội của kẻ thù”
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”
Mở đầu bài thơ, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại không khí đầy dữ dội khi tiếng súng Tây. Làm cho mọi người trở nên hoảng loạn, mọi vật đều nhuốm màu bi thương. Không gian mà nhà thơ tái hiện đó chính là không gian của một khu chợ. Và thời điểm được gợi nhắc đến đó chính là thời điểm “tan chợ”.
Lúc này chính là lúc người người đang tấp nập rủ nhau ra về sau buổi chợ. Khi ấy thì tiếng súng Tây bắt đầu nổ dồn, đây là sự hủy diệt tàn bạo của lũ giặc cướp nước. Bởi chúng nhằm vào thời điểm con người mất cảnh giác nhất, tập trung đông đúc nhất để nổ súng, sát hại người dân ta. Ở đây tác giả vừa thể hiện được hành động tàn bạo, vô nhân tính của quân Pháp. Vừa thể hiện được thái độ căm thù của mình với chúng.
Hai từ “súng Tây” như một kiểu nói cộc lốc. Một sự coi thường quân cướp nước, một sự lên án của những kẻ chỉ muốn dùng vũ lực bằng súng. Và trong cái tiếng súng đột ngột đó khiến cho rất nhiều người phải sợ hãi, hoảng loạn.
“Một bàn cờ thế lúc xa tay” với ý nghĩa là khi đang chơi một ván cờ thế. Bỗng dưng do tiếng súng kia là cho giật mình và làm những quân cờ sa xuống bàn cờ. Tội ác của kẻ thù thực sự đáng ghê sợ, một hành động đáng bị lên án.
Hai từ “súng Tây” đã thể hiện được điều đó, tác giả không lên án trực tiếp bọn thực dân Pháp mà gọi chúng với cái tên đầy coi thường. Bọn Tây, tức những người khác chúng ta về chủng tộc, mang trong mình âm mưu thâm độc, thấp hèn đáng coi thường, chúng dùng bạo lực chèn ép dân ta, hành động thật đáng lên án. Trong một tác phẩm khác của mình, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng thể hiện được thái độ căm thù khôn xiết của mình đối với bọn giặc.
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Tiếng súng Tây đột ngột nổ dồn khiến cho mọi người có mặt trong khung cảnh ấy hoảng loạn, sợ hãi “Một bàn cờ thế lúc sa tay”. Câu thơ này có thể hiểu là những người chơi cờ vì bị tiếng súng làm cho giật mình mà làm sa những quân cờ xuống bàn cờ.
Hoặc ta cũng có thể hiểu bàn cờ thế lúc sa tay này chính là thực trạng của Việt Nam lúc bấy giờ, là lúc dân tộc ta đang thất thế trước quân giặc. Chúng đã lợi dụng tình hình bất ổn của đất nước ta mà nhảy vào xâm lược, gây ra bao nhiêu cảnh đau khổ. Khung cảnh khi có tiếng súng Tây cũng thật hỗn loạn, xơ xác. Không chỉ con người mà ngay cả những loài vật cũng hoảng loạn, tìm đường chạy chốn, ẩn náu:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”
Đó là cảnh những đứa trẻ vì bị tiếng súng dọa cho giật mình, sợ hãi mà bỏ nhà chạy toán loạn. Muốn chạy trốn tiếng súng cũng như sự hủy diệt đáng sợ ấy “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy”, chúng mới chỉ là những đứa con nít. Hàng ngày phải sống trong khung cảnh dữ dội, hủy diệt của bom đạn quả thực vô cùng đáng thương. Chúng đang ở tuổi hồn nhiên nhất của cuộc đời, là những lúc vô lo, vô nghĩ nhất nhưng lại sinh ra trong giai đoạn đất nước đầy biến động, bạo loạn.
Không chỉ có lũ trẻ sợ hãi, mà ngay cả những loài vật trong tự nhiên cũng bị sự hủy diệt của kẻ thù mà mất đi nơi sinh sống. Hoảng loạn mà bay dáo dác khắp nơi để tìm chỗ trú ẩn. Không khí mà nhà thơ gợi ra ở đây thật hỗn loạn, bi thương.
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Một địa danh của Gia Đình là Bến Nghé, khi bị xâm phạm. Những thứ vô tri như bến nước, dòng sông cũng đã bị lay động. Những đồng cảm của những thứ vốn vô tri đó với thực cảnh đất nước đang trong chiến tranh. Bọt nước vỡ tan ở Bến Nghé, khung cảnh yên bình không còn nữa. Sự vỡ tan ấy cũng như sự phẫn nộ của đất trời, thiên nhiên vô tri trước tội ác của quân giặc. Dòng sông Đồng Nai cũng bị nhuốm màu của bi thương, đau khổ. Đó chính là sự đồng cảm, hòa quyện giữa thiên nhiên và lòng người. Cái cảnh đau thương của con người, cũng làm cho cảnh vật vô tri cũng có cảm xúc. Nó chính là một sự phẫn nộ trước sự tàn phá của kẻ thù.
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
Như một câu hỏi trước sự thật đau lòng. Đất nước đang bị tàn phá, người dân phải chịu khổ cực. Một câu hỏi như là một lời trách móc đối với cái triều đình vô dụng nhà Nguyễn. Một triều đình thực sự nhu nhược, chỉ biết đến lợi ích của mình mà quên đi những người dân đang sống trong cảnh mắc nạn. Để cho quân xuân lược chèn ép, áp đặt “mắc nạn này”. Một sự chờ đợi mong mỏi, có một người tài trí, một vị tướng tài ba sẽ đứng lên chống lại kẻ thù. Nhưng vào thời điểm này, thì đâu có xuất hiện ai bởi cái triều đình thối nát đó.
Sau khi phân tích và nghị luận bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu. Chúng ta thấy được đây thực sự là một tuyệt phẩm thơ của ông trong thời kỳ biến loạn của đất nước dưới sự xâm lực của quân thực dân. Bài thơ đã thể hiện được tình yêu đất nước, và qua đó cũng thể hiện sự căm thù quân xâm lược. Bài thơ là một sự thể hiện cảm xúc thực, tình cảm thực của chính Nguyễn Đình Chiểu.

11/01/2024
Minh đức NguyễnNguyễn Đình Chiểu, một tượng đài vĩ đại của thế kỷ 19, đã trải qua nhiều gian khó và thử thách trong cuộc đời, đặc biệt là việc mất đi thị giác khi còn trẻ tuổi. Mặ despite, ông không bao giờ đầu hàng trước những khó khăn. Thay vì gục ngã, ông đã chấp nhận thách thức và tạo dựng sự nghiệp đáng tự hào. Nguyễn Đình Chiểu không chỉ mở một trường dạy học, mà còn làm nghề y để giúp cộng đồng cải thiện sức khỏe. Đồng thời, ông còn viết văn và sáng tác thơ, sự nghiệp của ông tỏa sáng và thăng hoa, biến ông thành một ngôi sao nổi bật trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật của Việt Nam vào cuối thế kỷ 19.
Nguyễn Đình Chiểu nổi tiếng với các tác phẩm thơ lớn mang đậm tinh thần cổ điển, như "Lục Vân Tiên," và "Ngư Tiều y thuật vấn đáp." Tuy nhiên, đỉnh cao của tài nghệ và tư duy của ông xuất hiện trong những bài thơ và văn bản tôn vinh, như "Chạy giặc", "Xúc cảnh," "Văn tế Trương Công Định," "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc," và nhiều tác phẩm khác.
Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, trong bối cảnh xâm lược của thực dân Pháp vào Nam Bộ, được đánh giá vô cùng có giá trị. Một số ý kiến cho rằng "Sáng tác của ông sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước…". Trong số các tác phẩm của ông, "Lục Vân Tiên" và "Ngư Tiều y thuật vấn đáp" bám sát vào tinh thần nhân đạo cao đẹp. Những bài thơ như "Chạy giặc" đánh thức tình yêu quê hương, gắn kết tinh thần yêu nước và nâng niu bản dạng quê hương:
Thơ và văn tế của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện lòng tôn kính và biểu lộ sự thiêng liêng dành cho những người anh hùng của dân tộc, người sống với tấm lòng trung nghĩa và đã cống hiến hết mình cho đất nước. Ông đã vẽ lên một bức tranh sống động và sâu sắc về lòng yêu nước của nhân dân đối với các chiến sĩ của nghĩa quân. Những người nông dân và công nhân bình thường, trước đây chỉ quen với công việc nông nô, bỗng chốc trở thành những anh hùng cứu nước. Bằng một chiếc gậy hay một cây đao đơn giản, họ đã tham gia chiến đấu một cách dũng cảm:
"Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà."
Sự bất công và xâm lăng của quân Pháp khiến ông đau lòng, và bằng ngòi bút, ông đã thể hiện cảm xúc đó một cách sâu sắc. Mặc dù mất đi thị giác, Nguyễn Đình Chiểu không từ bỏ hy vọng và nỗ lực trong việc bảo vệ quê hương. Ông gọi lòng trung nghĩa của mình là "lòng đạo" chung thủy, sắt son, sáng ngời:
"Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương."
Những bài thơ và văn bản của ông thể hiện niềm tự hào về đất nước và khao khát của ông: "Chừng nào thánh đế ân soi thấu, Một trận mưa nhuần rửa núi sông." Những người đàn ông của nhân dân, ngay cả khi họ bị cướp mất tài sản, không từ bỏ hy vọng trong việc bảo vệ đất nước và gia đình:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ."
Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện lòng yêu nước, niềm kiêng nể và sự tôn trọng đối với những người dũng cảm của dân tộc. Mặc cho sự xâm lăng của Pháp, ông vẫn dùng ngòi bút và trái tim để tham gia vào cuộc chiến. Sự đoàn kết và tinh thần yêu nước đã thăng hoa trong tác phẩm của ông, và niềm mơ ước của ông vẫn là niềm mơ ước của hàng triệu người Việt:
"Chừng nào thánh đế ân soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông."

11/01/2024
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sat ay.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy.
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước.
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng.
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Đừng nói đến cảnh dân chạy giặc vội, mà trước hết hãy chú ý đến “tiếng súng Tây” rộ lên vào thời điểm tan chơ, Nghĩa là trước lúc súng nổ, chợ búa vẫn họp bình thường. Cuộc sống hoàn toàn thanh bình yên ổn. Lúc tan chợ là lúc bắt đầu sự sum họp của gia đình. Những đứa em ngóng anh chị, con cái đợi chờ cha mẹ, cháu chắt đợi ông bà. Cảnh hạnh phúc đầm ấm đơn sơ sẽ diễn ra ở mọi nhà với những món quà giản dị của chợ vùng quê: củ khoai, tấm bánh đúc ngô, dăm ba gióng mía, mấy nắm bỏng rang trộn mật… Cả nhà sẽ xúm quanh mâm cơm thanh đạm có bát canh chua, khúc cá kho, hay giản dị hơn chỉ có “râu tôm nấu với ruột bầu”…
“Tiếng súng Tây nổ đúng vào lúc đó,
Bất ngờ, đột ngột, dữ dội vô cùng.”
Súng Tây thời ấy nổ ghê gớm lắm: “súng giặc đất rền”. Nghe tiếng súng thì bọn giặc đã ở ngay bên cạnh. “Vừa nghe” thế mà cả bàn cờ thế đã hỏng “phút sa tay”. Thất bại ập đến nhanh quá. Thời gian ngắn ngủi càng tăng thêm tính chất đột ngột, bất ngờ, căng thẳng của tình thế. Và vì thế, thay cho cảnh sum họp đầm ấm là cảnh tượng lộn xộn sẻ nghé tan đàn:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.”
Súng vừa nổ, giặc đã ập đến. Người lớn còn chưa kịp đi chợ về hoặc còn đang ở ngoài đồng. Cho nên hốt hoảng lũ trẻ dắt díu nhau chạy lơ xơ. Đặt chữ “lơ xơ” lên trước chữ “chạy” là rất gợi tả. Dường như ta chỉ nhìn thấy sự rã rời, hốt hoảng sắp kiệt sức của những em bé, rồi sau mới biết là các em chạy. Hình ảnh so sánh đàn chim mất ổ dáo dát với lũ trẻ bỏ nhà chạy lơ xơ thật là đặc sắc. Nhưng cũng phải thấy thêm rằng khi giặc đến, chẳng những con người khốn khổ mà chim muông cũng không được yên ổn. Giặc đến làm đau cả sông núi, đau cả chim muông, đau cỏ cây.
Tả chạy giặc, một cuộc chạy vội vã, đột ngột không hề được chuẩn bị, chỉ đặc tả lũ trẻ và bầy chim là rất thành công. Xa hơn cảnh tượng sống động, bối rối, hốt hoảng, lộn xộn của lũ trẻ và bầy chim là sự mất mát, thiệt hại của cả một vùng quê rộng lớn:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.”
Của cải bị mất mái, nhà cửa bị thiêu cháy, con cái lạc cha mẹ, và chắc là sẽ không tránh khỏi sự chết chóc đau thương: “Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều. Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Giặc đến gieo bao tội ác lên đầu nhân dân, trước hết là những người dân lành, “Dân đen” côi cút làm ăn toan lo nghèo khó trọng ấp trong làng.
Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản miễn phí!
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Copyright © 2025 fqa.vn All Rights Reserved