logo fqa gpt

banner fqa app
Tải APP FQA Hỏi & đáp bài tập
Tải ngay
mỳ cayyy

14/02/2024

phân tích bài thơ "bóng chữ" của nhà thơ lê đạt
Trả lời câu hỏi của mỳ cayyy
right
Viết câu trả lời

Làm sao để có câu trả lời hay nhất?

  • Luôn có GIẢI THÍCH các bước giải
  • Không copy câu trả lời của Timi
  • Không sao chép trên mạng
  • Không spam câu trả lời để nhận điểm
  • Spam sẽ bị khóa tài khoản
CÂU TRẢ LỜI
Timi

14/02/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Bài thơ "Bóng chữ" của nhà thơ Lê Đạt là một tác phẩm tinh tế, thể hiện được cảm xúc và phong cách nghệ thuật đặc biệt của ông. Tuy nhiên, để phân tích chi tiết bài thơ này, cần có thông tin và nội dung cụ thể của bài thơ. Trong ngữ cảnh hiện tại, không có đủ thông tin để phân tích bài thơ "Bóng chữ" của nhà thơ Lê Đạt.
meoconhura

14/02/2024

Câu trả lời uy tín

“Bóng chữ” có lẽ không chỉ là nhan đề một bài thơ mà còn là của cả một đời thơ Lê Đạt nữa. Chính tác giả từng khẳng định, thơ ông viết lên từ bóng chữ cũng có nghĩa khẳng định sự nhập nhòa, mờ ảo trong thơ ông có nguồn gốc từ con chữ. Ông “dùng bóng chữ, dùng hàm nghĩa nên chữ nọ gọi chữ kia, sinh sôi nảy nở…” cũng giống như dùng ma lực để điều khiển những con chữ. Chữ của ông có cả một cái hồn riêng, tự biết yêu, biết nhớ, biết khóc, biết cười. Đọc thơ ông độc giả trở thành bị động trước những con chữ chủ động. Với bài thơ “Bóng chữ” cũng vậy:

“Chia xa rồi anh mới thấy em
Như một thời thơ thiếu nhỏ
Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa
Mây mấy độ thu
Vườn thức một mùa hoa đi vắng
Em vẫn đây mà em ở đâu
Chiều Âu Lâu
Bóng chữ đọng chân cầu”

Một thể thơ tự do, khoáng đạt, cách ngắt nhịp tùy hứng dài ngắn không đều nhau như chính dòng cảm xúc đang bị dồn nén, xô đẩy dồn tụ mất thăng bằng trong hoài niệm quay quắt của tác giả. Tất cả chỉ có 49 đơn âm tiết nhưng sự mông lung, mộng mị, giàu ảo ảnh của ngôn từ khiến người đọc như đi vào cõi mê cung chữ nghĩa.

Nhan đề thơ “Bóng chữ” vừa lạ lùng, vừa dồi dào sự lay động. Xét về nghĩa biểu vật của ngôn ngữ “chữ” ở đây chính là sự tồn tại của các kí tự và bóng chữ là ảnh chiếu, là sự hất loang những nét nghĩa ra bên ngoài vỏ ngôn từ để người đọc tự do suy thẩm theo vốn hiểu của mỗi cá nhân. Giản dị hơn, “bóng chữ” tức là hiểu nghĩa đằng sau ngôn từ.

Tuy nhiên, nói đến Lê Đạt - một “phu chữ” thì ý nghĩa nhan đề không chỉ có thế mà nó là bóng dáng thương nhớ một thời đã qua nhưng chưa bao giờ lìa xa trong tâm tưởng tác giả. “Bóng chữ” ấy là “bóng nàng” - nửa hư nửa thực; vừa như có thể kéo lại gần, vừa như lại quá diệu vợi, xa xôi. Cho nên, nhan đề ấy thực chất là một sự tưởng niệm về một tình yêu dở dang, một thế giới hoài niệm đẫm màu nhớ thương trong trái tim tác giả.

 “Chia xa rồi anh mới thấy em
 Như một thời thơ thiếu nhỏ”

Tín hiệu quá vãng hiện lên ngay ở câu mở đầu. Hai vần bằng “xa rồi” tiếp nối hai vần trắc “mới thấy” vừa là sự đối lập của cái hiện hữu với cái đã qua, vừa rưng rưng một niềm chua chát: khi mất đi điều quý giá, người ta mới biết mình từng có điều vô cùng đáng để trân trọng.

Câu thơ liền kề đã xác lập suy tưởng ấy là có cơ sở bởi “em” là của thời “thơ-thiếu-nhỏ”. Ba từ ấy rất đa nghĩa, nhiều chiều tựa như “bóng chữ” hắt lên cho người đọc giải mã. “Thời thơ thiếu nhỏ” vừa là thời đã qua, vừa là sự thu hẹp dần về mức độ nhỏ, khuyết, vắng, xa… tức là độ lùi của có em ngày xưa càng xa; độ tiến của có em, còn em, gần em cũng càng thêm xa ngái. Nhưng cái còn lại và cũng là cái vô cùng quý giá để tạo nên chất men của thơ, chất nồng trong trái tim đập rộn yêu thương bản năng của nhân loại, đó là:

 “Em về trắng đầy cong khung nhớ”

Thông thường “trắng” vẫn đồng nghĩa với “không” với hư vô, với nhàm nhạt, thậm chí là “trắng quá nhìn không ra” như Hàn Mặc Tử. Nhưng với cách dùng từ của Lê Đạt, tính từ “trắng” đứng trước tính từ “đầy”, tính từ “nhớ” và ở ngay sau động từ “về” thì câu thơ đã trở thành một sự kết hợp từ diệu kì “em” choán đầy trong niềm nhớ của thi nhân.

Cái sự trắng ở đây là trắng tràn đầy nỗi nhớ, trắng đến mức như có sức mạnh va đập vào kí ức tưởng ngủ quên - nhưng lại không ngủ quên của tác giả. Hình ảnh em, bóng dáng em luôn là hình ảnh động, bóng dáng động làm “cong” cả khuôn thước tưởng là đóng khung trong hai từ “quá khứ”.

“Mưa mấy mùa
 Mây mấy độ thu
 Vườn thức một mùa hoa đi vắng”

“Mây, “mưa” vốn là các từ thường được liên kết với nhau nhưng ở đây tác giả tách ra đứng độc lập ở 2 đầu dòng thơ riêng biệt. Thật ra, đó không chỉ là cách kết hợp từ mới vì trước đó có nhiều thi nhân đã sử dụng. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là 2 từ biểu thị thời gian ấy chỉ sự xoay vần của thời gian. Bao mùa đã qua, bao độ đã tới - tức là sự vần vũ của thời gian là liên tục, là tuần hoàn. Duy chỉ có một thứ không đổi thay, không im ngủ - đó chính là “vườn thức”.

Vườn ở đây chính là một sự ẩn dụ ngọt ngào cho anh, cho nỗi nhớ cháy bỏng mang tên tình yêu vẫn rừng rực thức. Dù em đã xa, dù “mùa hoa đã đi vắng” nhưng chiếc kim la bàn ấy vẫn chỉ duy nhất một hướng đó thôi - hướng “em yêu”. Đọc đến đây, tôi cồn cào nhớ đến thơ Xuân Quỳnh với sự nồng nàn, thủy chung như nhất:

 “Dẫu xuôi về phương Bắc
 Dẫu ngược về phương Nam
 Nơi nào em cũng nghĩ
 Hướng về anh một phương”

Chỉ có khác nhau là lời tình tự của nhân vật trữ tình, còn điểm giống nhau đó là ở sự đắm say đến tha thiết, cảm động.

Như đã nói ở trên, khi mất đi người ta mới ý thức được mình đã từng có. Do vậy, ở “Bóng chữ” dư vang ấy ngân lên thật da diết, nao lòng:

 “Em vẫn đây, mà em ở đâu”

Tưởng rằng tác giả đang muốn gào lên “em đang ở đâu?” bởi sự khát cháy của nỗi niềm thương nhớ nhưng không - tác giả ghìm lại, sự ghìm lại bởi bản chất thâm trầm của người đàn ông. Một tiếng thở giờ đây đã được khép lại bằng nhịp xa ngái: “vẫn đây” “mà đâu”. Có lẽ bi kịch tình yêu chính là ở đây. Em vẫn tồn tại, vẫn hiện hữu nhưng giờ đây lại không là sự tồn tại thuộc về mình, sự hiện hữu trong chủ động của mình nữa. Còn gì xót xa hơn cho cái “có” nhưng không còn có, cái “thấy” nhưng không còn thấy nữa. Tất cả là sự diệu vợi, xa xôi, tất cả là quá vãng dù vẫn đắm say, thắm quyện, da diết nỗi nhớ.

Lê Đạt không dùng dấu chấm câu nhưng với tôi từ đầu bài đến đây có thể coi là một dấu chấm; để rồi sau đó, sự bâng khuâng, sự mênh mang, sự mờ ảo như chính nhan đề của nó được đặt ở câu thứ 2 tiếp theo:

 “Chiều Âu Lâu
 Bóng chữ đọng chân cầu”

Phiêu diêu trong biển nhớ, tác giả tựa vào bến Âu Lâu nơi mình đã sinh ra để thành thực thú nhận với lòng mình một chữ “đọng”. Bóng nàng mãi là hình ảnh dấu yêu, như rễ cây luôn gắn vào cội đất, như con người luôn gắn với nơi chôn nhau - bóng em mãi được neo đậu chắc chắn trong trái tim chàng trai si tình Lê Đạt.

Lê Đạt đã thực sự để tang một tình yêu dang dở trong “Bóng chữ”. Có ý thức muộn màng, có nhớ nhung tràn trề đắm say, có xót thương cho tình yêu…, tất cả đã quá đủ để giã từ một tình yêu, một linh hồn rỗi. “Bóng chữ” có thể rất nhập nhoà, rất vô thực, và ta không thể nào thấu cảm nó trọn vẹn. Song có thể nói Lê Đạt đã hoàn toàn thành công khi vẽ lên tình yêu màu sắc của nhớ nhung trong một thế giới ảo ảnh. Nơi ấy, tình yêu là bóng, nỗi nhớ cũng là bóng. Tất cả đều là hư ảo, liêu trai, mong manh và không có màu.

Nhà thơ là người điều khiển con chữ, dẫn dắt con chữ tới ý thơ, tứ thơ. Lê Đạt có lẽ là một dạng khác thường. Thơ ông, hay chính bản thân ông, bị chi phối mạnh bởi con chữ. Ông và chữ nghĩa điều khiển lẫn nhau, hoà trộn và thấu hiểu lẫn nhau mà biến hoá thành thơ. Chính bởi sự niêm phong và cô đọng chữ nghĩa này, thơ ông hiển nhiên “khó và tối”, và kén cả người đọc. Và ngay cả những ai yêu thơ Lê Đạt, cũng không thể khám phá hết cái hay của trường phái thơ “tạo sinh” này, chỉ trong một chốc lát. Mỗi lần tiếp nhận thơ ông, độc giả lại tìm thấy “một chập chờn hư thực mới” từ cùng một chất liệu liêu trai bắt nguồn từ những ảo ảnh và sự vô thường của cuộc đời. Vì vậy, ta hoàn toàn có thể nói, những tác phẩm của Lê Đạt, tuy có thể không nhiều về số lượng, nhưng đều là “tác phẩm của một đời”. “Bóng Chữ”, với tôi, là một bài thơ như thế.


Khi tiếp nhận bài thơ, tôi đã luôn tự hỏi, thực ra “Bóng chữ” là gì. Sau cùng, tôi tin rằng “Bóng” là sự si mê tới mức ám ảnh một nàng thơ. Nhưng vì chỉ là “Bóng”, nàng thơ ấy ôm trọn năm mươi mốt tiếng thơ nhưng vẫn không rõ hình hài, thần sắc – mà cụ thể, Lê Đạt đã lấy màu trắng để che lấp sự nhợt nhạt đó. Còn “Chữ”, có lẽ là sự “cụ thể” tất cả những tiếng thơ trong bài, để lại cho bài thơ một chất liệu khá “liêu trai”, nửa hư nửa thực, vừa như có thể chạm vào, nhưng trong giây phút lại tan biến. Có lẽ là nửa vời. Lê Đạt vẽ tình yêu bằng một thứ sắc thái “phi sắc thái”, để lại những câu hỏi vô cùng. Tôi lấp đầy những câu hỏi bằng sự thấu cảm của riêng tôi, có lẽ là chệch đường vì chẳng ai có thể lấy một chút “ngơ ngác” của tuổi trẻ để lí giải những hư ảnh của người đã chiêm nghiệm nhiều. Tôi víêt về “Bóng Chữ” cũng bằng sự si mê, nhưng là si mê vì không hiểu hết, si mê vì có thể dùng sự sáng tạo để tìm được một chút tương đồng giữa hai thế hệ.


“Chia xa rồi anh mới thấy em


Như một thời thơ thiếu nhỏ


Em về trắng đầy cong khung nhớ


Mưa mấy mùa,


Mây mấy độ thu


Vườn thức một mùi hoa đi vắng


Em vẫn đây mà em ở đâu


Chiều Âu Lâu


Bóng chữ đọng chân cầu”


Bài thơ vỏn vẹn bốn mươi chín tiếng. Và thêm cả với tiêu đề “Bóng Chữ” , năm mươi mốt tiếng thơđủ làm người ta phải bối rối.


Câu thơ đầu tiên vẽ ra sự chia cắt: Em – Tôi – Hai Thế Giới.


“Chia xa rồi anh mới thấy em”


Sự “chia xa” ở đây là khoảng cách không gian hay là khoảng cách tâm hồn giữa hai thực thể? Đây là tiếng thơ được thốt lên sau một lời từ biệt xa cách hay vang vọng trong sự im lặng giữa “anh” và “em”, không thể thấu hiểu – không thể chạm vào nhau?


Tôi hình dung thực thể “em” ở đây vừa là kí ức, vừa là hiện tại. “Em” là thực, cũng là ảo ảnh. “Em” đã rời xa, và “em” vẫn còn ở lại.


Thế là chất liêu trai vô tình phủ lên “Bóng Chữ” như một vạt áo mỏng manh. Em hữu hiện hay em chỉ là mơ thôi? Độc giả, hay chính cả tác giả, cũng không rõ.


Có lẽ Lê Đạt đã dồn hết tâm sức vào bài thơ, cũng có thể ông viết nó trong cơn mơ chập chờn. Ông viết: “Chia xa rồi anh mới thấy em” vừa có chút gì hối tiếc, vừa có hoài niệm về một điều thiêng liêng đã phai tàn. Giống như một kẻ say ngủ vừa bị kéo ra khỏi giấc mơ, trong mình vẫn mang chút dư âm ám ảnh, tuy không rõ hình hài. Điều duy nhất Lê Đạt đã xác định, là ông đã “thấy”. Khi “rồi” kết hợp với “mới”, câu thơ liên tưởng đến sự muộn màng. Nếu hiểu theo nghĩa căn bản thì “anh chỉ thấy em khi đã chia xa”. Xa hơn nữa có lẽ là: Khi mất đi điều gì, người ta mới biết mình đã từng có.


Tình yêu có lẽ là thế. Bi kịch rất hồn nhiên, cay đắng rất nhẹ nhàng.


Tôi nghĩ “Bóng Chữ” là một dạng như thế. Khi đọc tôi thấy hoàn toàn thanh thản, khi suy nghĩ tôi lại thấy như nhuốm màu một loại bi kịch của yêu đương.


“Chia xa rồi anh mới thấy em


Như một thời thơ thiếu nhỏ”


Khi liên kết hai câu thơ với nhau, câu thơ thứ hai có vẻ như rõ nghĩa hơn. Ta vô tình dùng tiếng cuối của câu thứ nhất làm chủ thể của câu thứ hai. Có thể hiểu thành:


“Em như một thời thơ thiếu nhỏ”


Ai đã từng quan tâm đến trường phái “thơ tạo sinh” của Lê Đạt, có lẽ sẽ biết đến câu thơ:


“Mimosa chiều khép cánh mi môi xa”


Lê Đạt – với cách cấy những chất men lạ vào thơ, mà “Bóng Chữ” cũng là một ví dụ – đã sử dụng sự tương đồng về âm thanh của chữ nghĩa một cách tài hoa để tạo nên những hỗn hợp từ lạ lùng và đa nghĩa. Hỗn hợp “thơ thiếu nhỏ” là một quy trình đảo ngược lại so với “mi môi xa”. Thay vì tách một từ thành ba từ có nghĩa, Lê Đạt ghép ba từ có tính tương đồng về nghĩa tạo thành một thứ phức chất đa nghĩa, đa dạng. Bản chất mỗi tiếng thơ cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. “Thơ” có thể là thời thơ ấu, cũng có thể là nàng thơ, hay đơn giản chỉ là thơ thôi. “Thiếu” là thiếu thời, hay là sự thiếu vắng? Theo đó, “Em như một thời thơ thiếu nhỏ” có thể là: “Em như một thời vắng tuổi nhỏ”, “Em như một nàng thơ đã hết thơ ngây” hay “Em như một nàng thơ đã già”…Sức cạm bẫy của con chữ trong dòng thơ này có thể được đồng hoá với hình ảnh “Em”. Em, cũng chính là Bóng Chữ. Bóng Em, Bóng Chữ, Bóng Ai?


Lê Đạt từng khẳng định rằng, thơ ông viết lên từ bóng chữ, tức là khẳng định sự nhập nhoà mờ ảo từ trong thơ ông có nguồn gốc từ con chữ. Ông “dùng bóng chữ, dùng hàm nghĩa nên chữ nọ gọi chữ kia, sinh sôi nảy nở…” cũng giống như dùng ma lực để điều khiển những con chữ. Chữ của ông có hẳn một cái hồn riêng, tự biết yêu, biết nhớ, biết khóc, biết cười. Với thơ Lê Đạt, chữ nghĩa là chủ động, độc giả trở thành bị động.


Đặc trưng cho sự chủ động và tính “sinh sôi nảy nở” ấy trong “Bóng Chữ” có lẽ là câu thơ thứ ba. Bảy tiếng thơ gợi niềm nhớ thương hết sức tha thiết, đắm say.


“Em về trắng đầy cong khung nhớ”


Ma lực của những tiếng thơ có thể làm độc giả lệch hướng, và làm ý nghiã thực của câu thơ trở nên méo mó. Nhưng cũng có thể chính ma lực ấy tạo nên cái hồn của câu thơ, mà qua mỗi lần đọc, người ta lại có cách cảm nhận, cách thấu hiểu khác nhau. Những chữ “trắng”, “cong”, “khung nhớ” bao giờ cũng là dấu chấm hỏi với độc giả, khi tiếp cận bài thơ lần đầu tiên. Dễ thấy, độc giả cần thời gian để suy ngẫm “Bóng Chữ”. Sự nghịch ngợm của chữ nghĩa đã trở thành thách thức với người đọc thơ Lê Đạt. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi thơ ông là thơ “tạo sinh”.


Tôi gọi “Bóng Chữ” là một loại bi kịch nhẹ nhàng, ấy là từ màu trắng sao mà tinh khôi quá. Khi màu sắc thanh khíêt được lồng ghép trọn vẹn vào “khung nhớ”, tôi cảm nhận được sự đầy đặn. Tại sao nỗi nhớ tha thiết lại được bộc bạch ngọt ngào và dịu nhẹ như thế? Tuy là cồn cào, nó vẫn rất thơ. Tuy là màu trắng xa xôi đã che khuất bóng ai, nó vẫn là một màu sắc trong trẻo. Nó còn tạo ra một trường liên tưởng tới màu trắng của riêng Hàn Mạc Tử, cũng đắm say, cũng đậm đà:


“Mơ khách đường xa, khách đường xa


Áo em trắng quá nhìn không ra


Ở đây sương khói mờ nhân ảnh


Ai biết tình ai có đậm đà”


Ta bắt gặp ở đây chất liêu trai tương đồng từ màu trắng của Hàn Mạc Tử. “Bóng Chữ” có lẽ cũng là một dạng “sương khói mờ nhân ảnh” như thế, mơ hồ và vô định. Vạt áo trắng, màu trắng có thể là màu của ảo ảnh, nhưng ẩn sau nó là sự đậm đà của tình yêu, từ đó tình yêu trở nên hư hư thực thực. Ở một khía cạnh khác, màu trắng còn là màu của tang thương, mất mát. Phải chăng Lê Đạt đã gián tiếp để tang một tình yêu dang dở khi nói: “Em về trắng đầy cong khung nhớ”?


Trong câu thơ này, từ “cong” trở nên đặc biệt. Theo một số ý kiến, từ “cong” gợi nhục cảm. Với riêng tôi, từ “cong” có đủ sắc thái mềm mại để làm tiếng “khung” mềm ra. Hình tượng “khung nhớ” sẽ không đủ thơ nếu không có tiếng “cong” gợi tả đứng trước. Tiếng “cong” bẻ gãy sự cứng nhắc của “khung”, và khi “khung” đi lìên với “nhớ”, cụm từ trở nên mềm dẻo, ngọt ngào và gợi chất thơ đến lạ kì. Câu thơ trở nên đắm say là vì vậy, dẫu bóng chữ đã làm nội dung câu thơ trở nên mập mờ. Khi nói “Em về trắng đầy cong khung nhớ”, thật ra hình tượng “em” đang đến hay đang đi? Em đến mang theo nỗi nhớ hay em đi để lại nỗi nhớ? Hay phải chăng em vẫn đây mà nỗi nhớ vẫn tràn về “đầy cong khung nhớ”? Dầu là gì, đó thực chất vẫn là một tình yêu quá đắm say.


Tuy vậy, nếu tiếp nhận “cong” theo một hướng khác, con chữ trở thành trĩu nặng. “Khung nhớ” như không đủ để cất giữ nìêm nhớ thương, vì quá nhiệt thành, quá tràn trề mà “cong” làm trĩu năng cả “khung nhớ”. Nỗi nhớ, từ một khái niệm trừu tượng, đã biến hoá thành một khái niệm vật chất; hay chính “khung nhớ” là đại lượng đong đếm nỗi nhớ. Nỗi nhớ vô hạn như được dồn nén vào “khung nhớ” hữu hạn, vậy nên mới tràn trề và “hết mình”.


“Em về trắng đầy cong khung nhớ


Mưa mấy mùa


Mây mấy độ thu”


Câu thơ thứ tư tạo nên một sắc thái khá ngọt: Mưa mấy mùa – Mây mấy độ. Khi “Mây” và “Mưa” đi với nhau, người ta dễ liên tưởng đến “mây mưa” – chỉ chuyện phòng the. Trong câu thơ này, “Mây” và “Mưa” đã bị phân cách bằng “mấy”, một từ phíêm định. Từ “mấy” tự thân có thể tương tác với những từ khác, khi đi liền với “Mây”, “Mưa”, chúng như có ý hỏi nhau về chuyện yêu đương. Bản thân từ “mấy” cũng trải qua “một đời tình”:


“Nước non cách mấy buồng thêu”


hay


“Mấy lần cửa đóng then cài”


Song, trong câu thơ này, “mây”, “mưa”, “mấy” vẫn có thể mang một cách hiểu khác. Đó là sự vần xoay của thời gian và vũ trụ – một dạng hư ảnh mà nỗi niềm “đầy cong khung nhớ” đã tạo ra. Chủ thể trữ tình như không ý thức được sự trôi tuột của thời gian, không gian mà vô thức hỏi: “Mưa mấy mùa, mây mấy độ thu?”. Theo đó, mây, mưa nhuốm màu thời gian như một dấu hiệu gián tiếp về nỗi nhớ của yêu đương, hay còn là sự tiếc thương của một điều gì đó đã xa xôi. Nỗi niềm đong đầy hoà vào cả đất trời, niềm cô đơn lại như như lan toả, phảng phất nhưng rất êm dịu – điều mà tôi từng tìm thấy ở “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ:


“Màu thời gian không xanh


Màu thời gian tím ngát


Hương thời gian không nồng


Hương thời gian thanh thanh”


Nếu ở câu thơ thứ tư, hương – sắc của nỗi nhớ chỉ là thoang thoảng, thanh thanh, dịu nhẹ, thì sang câu thơ tiếp theo, hương – sắc ấy đã trở nên nồng đậm hơn hết, trở thành hương sắc của một đời, một kiếp:


“Vườn thức một mùi hoa đi vắng”


Có ý kiến cho rằng cả trục nhớ của bài thơ nằm trong chữ “thức”. Với riêng tôi, “thức” là một từ đắt, và trong ngữ cảnh này, nó mang nghĩa “sống”: Hoa đi vắng, vườn không ngủ. Hoa đi vắng, vườn vẫn sực mùi hương. Có lẽ đó là mùi hương của nhớ nhung, đủ để lan toả và phả vào độc giả một chút bâng khuâng. Có lẽ, “thức” ở đây là thao thức, nhớ mong, là sự gợi nhớ về một điều thiêng liêng đã thiếu vắng. Cũng có lẽ, “thức” chính là thức tỉnh, rằng “Khi đã mất đi, người ta mới ý thức được mình đã từng có.


Những vô thường, yêu dấu, tiếc thương, nhung nhớ về một “mùi hoa đi vắng” của chủ thể trữ tình đã được đánh thức như thế. Khi không còn mùi hoa, vườn vẫn rực rỡ, nhưng đã vô hồn. “Mùi hoa” như là dấu hiệu của hồn vườn, là chất liệu chân thành và vô giá nhất để tạo thành vườn. “Mùi hoa đi vắng” tức là một phần của vườn đã đi mất vĩnh viễn. Vườn thức. Phải chăng, “thức” ở đây còn có ý chỉ sự vô cảm, vô hồn của vườn khi đã mất mùi hoa?


Tình yêu trong “Bóng Chữ” không cầu kì mà giản đơn đến bất ngờ. Tuy vậy, cái sự gần như hơi thở ấy không khíên cho mối tình và nỗi nhớ ở đây trở thành đơn điệu. Tình yêu ấy vừa mang say đắm, vừa mang tiếc thương, vừa gần, vừa hư ảo, vừa mới đây, lại vừa không còn nữa:


“Vườn thức một mùi hoa đi vắng


Em vẫn đây mà em ở đâu?”


Dường như đây cũng là một câu hỏi vô thức. Hay đây chính là ảo ảnh của một dại khờ? Người đã đi, nhưng ảnh hình và mùi hương vẫn còn vương vấn. Hay người vẫn đây, nhưng tâm hồn người lại quá đỗi xa xôi. Chủ thể trữ tình cảm nhận được “em vẫn đây”, nhưng không thể thấy, không thể chạm vào. “Em” bây giờ gần như một hồn ma, bóng em, vì nỗi nhớ niềm thương mà hiện hữu thật liêu trai và ám ảnh.“Em” như ở khắp nơi, như mùi hoa lẩn khuất quanh vườn, nhưng chưa từng xuất hiện.


Mùi hương ấy, hình bóng ấy, chỉ là kí ức, vì nỗi nhớ quay quắt mà nhập nhoà với hiện tại, dường có dường không. Như một chút dư âm còn sót lại khi giai điệu đã tàn phai, tiếc thương đã thành vô nghĩa. Tình yêu nghẹn lòng đã biến bóng em thành hư ảo.


“Em vẫn đây mà em ở đâu?”


Như một câu hỏi không có lời đáp, chỉ vọng về một chút dư âm, ngân toả và buồn tha thiết. “Em vẫn đây mà em ở đâu” phải chăng còn có nghĩa là: em không còn nữa.


“Chia xa rồi anh mới thấy em


Như một thời thơ thiếu nhỏ


Em về trắng đầy cong khung nhớ


Mưa mấy mùa,


Mây mấy độ thu


Vườn thức một mùi hoa đi vắng


Em vẫn đây mà em ở đâu


Chiều Âu Lâu


Bóng chữ đọng chân cầu”


Khi tiếp xúc với “Bóng Chữ”, ta dễ dàng nhận thấy được nhãn tự của bài thơ, chính là “Bóng Chữ”. Nhưng đó cũng là từ ngữ gây bối rối nhiều nhất, bởi nó không chỉ hiện diện cho một tình yêu dang dở và chưa thể hoá kiếp, mà còn là hiện thân cho phong cách và những sáng tác của Lê Đạt. “Bóng Chữ”, không chỉ là tên của một bài thơ bốn mươi tiếng, mà còn là tên của một đời thơ. Nếu nói về bài thơ, “bóng chữ” là bóng em, bóng người; Nếu nói về đời thơ, “bóng chữ” là nỗi ám ảnh chi phối và “làm khổ” Lê Đạt, cũng như làm những người yêu thơ luôn phải ngỡ ngàng khi đọc thơ ông.


Câu thơ “Chiều Âu Lâu/ Bóng chữ đọng chân cầu” là câu thơ gây khó hiểu nhất trong toàn bài. Vì sự giản lược tới mức gần như tuyệt đối của Lê Đạt đối với từ ngữ, vận dụng từ ngữ bằng sự cô động hết mức, nên ta có rất nhiều cách hiểu, chỉ với một câu thơ của Lê Đạt. Không thoát khỏi quy luật đó, “Chiều Âu Lâu/ Bõng chữ đọng chân cầu” cô động tất cả tình cảm, nhớ thương hay trăn trở, bối rối chỉ vào bảy tiếng thơ. “Chiều Âu Lâu” có thể nói về Âu Lâu, một địa danh ở Yên Bái, cội nguồn của Lê Đạt. Nhưng “Âu Lâu”, nếu được tách ra, có thể hiểu thành một mái lầu. Một nơi hò hẹn, hay chỉ là một chốn dừng chân trong giây phút của người du khách. Có vẻ như người du khách ấy chính là bóng em, chợt đến rồi chợt đi, để lại nỗi nhớ thiết tha khôn cùng.


Từ “âu”, trong một trường nghĩa nào đó, còn có thể là âu lo, âu yếm hay là “Âu đành quả kiếp nhân sinh” (Truyện Kiều), tức là buông xuôi, từ bỏ. Theo mỗi lớp nghĩa, “Âu Lâu” sẽ là một biểu tượng khác nhau. Nó vừa là ảo giác từ nỗi nhớ của một kẻ si tình, nó cũng vừa là sự từ bỏ của chính niềm say đắm ấy. “Chiều Âu Lâu” là kí ức hay là hiện tại? Ta không rõ, và Lê Đạt cũng nhập nhằn như thế.


“Chiều Âu Lâu


Bóng chữ đọng chân cầu”


Trong chiều Âu Lâu ấy, hình ảnh bóng em, hay bóng chữ “đọng” lại thành dòng kí ức như chưa thể trôi đi, chưa thể hoá kiếp. Có lẽ vì tình yêu là dang dở, dù Lê Đạt mang màu trắng để tang, cũng không đủ thanh thản để rời khỏi nhân thế. Tình yêu ấy đã biến hoá thành bóng chữ, bóng em, ám ảnh một đời yêu đương. Tình yêu ấy mang quá nhiều tiếc thương và nỗi nhớ mà không thể siêu thoát. “Bóng chữ”, hay bóng ai, “đọng chân cầu” như trĩu nặng cả một đời.


Trong một số tài liệu khác, tôi thấy có một sự khác biệt ở câu thơ cuối, đó là:


“Chiều Âu Lâu/ Bóng chữ động chân cầu”


Trong trường hợp này, bóng em đã vụt thoáng qua trong chữ “động”, rồi lại tan biến trong chữ “bóng”. “Bóng”, có lẽ là không thật, là hư ảo, là “không còn nữa”. Cả bài thơ, bởi làm nên từ bóng chữ, nên chao đảo giữa thực và ảo, giữa có và không. Sau cùng tình yêu của “Bóng chữ” là phôi pha hay vĩnh cữu, ta không biết.


“Chiều Âu Lâu


Bóng chữ đọng chân cầu”


Tôi tin Lê Đạt đã thực sự để tang một tình yêu dang dở trong “Bóng chữ”. Có ý thức muộn màng, có nhớ nhung tràn trề đắm say, có xót thương cho tình yêu…, tất cả đã quá đủ để giã từ một tình yêu, một linh hồn rỗi. “Bóng chữ” có thể rất nhập nhoà, rất vô thực, và ta không thể nào thấu cảm nó trọn vẹn. Song có thể nói Lê Đạt đã hoàn toàn thành công khi vẽ lên tình yêu màu sắc của nhớ nhung trong một thế giới ảo ảnh. Nơi ấy, tình yêu là bóng, nỗi nhớ cũng là bóng. Tất cả đều là hư ảo, liêu trai, mong manh và không có màu.

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

right Đặt câu hỏi ngay

Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản miễn phí!

Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn

LIÊN KẾT

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)

Copyright © 2025 fqa.vn All Rights Reserved