03/03/2024
Làm sao để có câu trả lời hay nhất?
03/03/2024
03/03/2024
Tú Xương sinh năm 1870, đến năm 15 tuổi đã bắt đầu đi thi. Khoa Ất Dậu 1885, không đỗ. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều hỏng. Khoa Giáp Ngọ 1894, chỉ đỗ tú tài, năm đó 24 tuổi và từ đó đã chính thức thành tên là Tú Xương. "Thi không ăn ớt thế mà cay". Tú Xương còn vác lều chõng thi tiếp 4 khoa nữa: Khoa Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tí 1900, Khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906. Nguyễn Tuân nói: "Thế rồi Tú Xương mất vào đầu năm sau (1907). Tức là Tú Xương thi chết thôi, thi cho đến chết mới thôi".
"Một việc văn chương thôi cũng nhàm,
Trăm năm thân thế có ra gì?".
(Buồn thi hỏng)
Khoa thi Đinh Dậu đôi với Tú Xương có một ý nghĩa đặc biệt: Nhiều hăm hở và hi vọng. Khoa thi trước (khoa Giáp Ngọ, 1894) ông đã đỗ tú tài nên khoa thi này ông hi vọng sẽ đỗ cử nhân bước lên đài danh vọng: "Võng anh đi trước, võng nàng theo sau".
Nhan đề bài thơ còn có một cái tên khác: "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu". Bài thơ miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương tại trường Nam năm 1897, qua đó nói lên nỗi nhục mất nước và niềm chua xót của kẻ sĩ đương thời.
Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:
"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà".
Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bây giờ nước ta đã bị thực dân Pháp thống trị, việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ "ba năm mở một khoa" nhưng đã cuối mùa. Và kẻ chủ xướng ra các khoa thi ấy là nhà nước là chính phủ bảo hộ. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà". Đời Nguyễn, ở Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Tây thực dân chiếm trường thi Hà Nội, nên mới có chuyện sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Hà như thế. Theo Nguyễn Tuân cho biết khoa thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, đỗ 60 cử nhân và 200 tú tài. Tú Xương đỗ tú tài khoa thi đó. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu số người dự thi còn đông hơn nhiều!
Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc. Vì là người trong cuộc nên Tú Xương mới làm nổi bật cái thần của quang cảnh trường thi như vậy. Dáng hình sĩ tử thì “vai đeo lọ" trông thật nhếch nhác, "lôi thôi". Sĩ tử là người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến từng theo nghiệp bút nghiên. Trong đám sĩ tử "lôi thôi" sẽ xuất hiện những ông cử, ông tiến sĩ, ông tú nay mai. Câu thơ "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ" là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ "lôi thôi" lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn "vai đeo lọ". Lọ mực hay lọ đựng nước uống trong ngày thi? Đạo học (chữ Hán) đã cuối mùa, "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi" nên trường thi mới có hình ảnh mỉa mai “ Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ " ấy .
Nét vẽ thứ hai cũng thật tài tình:
"Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".
Ậm oẹ nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm dọa. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh "ậm oẹ" lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường "miệng thét loa". Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới "ậm oẹ" và "thét loa" như thế. Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, giám khảo cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình biếm họa độc đáo này gợi lại cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta:
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".
Hai câu luận tô đậm bức tranh "Lễ xướnq danh khoa Đinh Dậu" bằng hai bức biếm họa về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tên công sứ Nam Định Le Normand đã đến dự. Các ông cử lẫn khoa, các ông tú mền, tu kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lay mụ đầm “váy lê quét đất", “ ghế trên, ngoi đít vịt". Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:
"Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra".
Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh "Lọng cắm rợp trời" gợi tả cảnh đón tiếp dành cho "quan sứ", lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ "mụ đầm ra" mụ đầm đến với "váy lẽ quét đất" mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:
"Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng".
Nguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: "Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạy Tây, lạy cả đầm, thì quả là nhục".
Vịnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu nếu thiếu đi hai hình ảnh ông Tây mụ đầm, bức tranh biếm họa coi như chẳng còn gì. Nghệ thuật đối của Tú Xương đã làm tăng sức hấp dẫn cho phong cách hiện thực của Tú Xương. Và nhờ có "lọng" đối với "váy", "quan" đối với "mụ" mà giọng cười, lối cười, hương cười, sắc cười (chữ của Nguyễn Tuân) của câu thơ Tú Xương kế thừa cái cười dân tộc trong ca dao, trong tuồng, chèo cổ. Có hiểu được rằng lọng là một thứ nghi trượng (cờ, biển, tán, tàn, võng, lọng,...) cao sang được dùng trong nghi lễ đón rước cúng tế lại được đem đối với váy (đồ dơ), mới thấy nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương. Nỗi đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận này.
Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”
Câu thơ như một lời than; trong lời kêu gọi hàm chứa bao nỗi xót xa, tủi nhục và cay đắng. Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc,... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Ba tiếng "nào ai đó" phiếm chỉ càng làm cho tiếng than, lời kêu gọi trở nên thấm thía, lay gọi thức tỉnh. Chữ "ngoảnh cổ" gợi lả một thái độ, một tâm thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong cảnh đời nô lệ. Phải biết "ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà". "Cảnh nước nhà" là cái cảnh nhục nhã:
"Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu...
(...) Kẻ chức bồi người tước cu li
Thông ngôn, kí lục chi chi
Mãn đời, lính tập, trọn vị quan sang”
(Á tế Á ca)
Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,... Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than, có cả những dòng lệ...
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" vừa tả cảnh "nhập trường", vừa tả cảnh “lễ xướng danh", qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ. Một hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng. Và trữ tình thấm thía bao cay đắng tủi nhục. Chất thơ, hồn thơ, phong cách thơ Tú Xương là như thế!
Bình về bài thơ này, Nguyễn Tuân viết: "... thơ nói về trường thi của Tú Xương giống như những lời thanh nghị của một lớp sĩ phu thời đó. Không đánh được ai bằng khí giới, thì ít nhất cũng phải lấy bút ra mà vẩy cái lực sĩ khí vào những nghè, những cử bịt mũi xu thời! vẩy vào, và than một đôi lời”.
03/03/2024
Đỗ Phương ThanhSau khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, chúng đã mang văn hóa phương Tây xâm nhập vào nước ta. Điều này khiến cho nền Hán học của Việt Nam đi đới thời kỳ suy tàn, các nho sĩ thi nhau đem vứt bút lông, chuyển sang dùng bút sắt. Điều này khiến các kì thi truyền thống không còn đủ sự nghiêm túc, khắt khe mà trở nên bát nháo và cực kỳ hỗn độn.
Vào khoa thi năm 1897, sau khi kì thi Hương ba năm diễn ra một lần đã bị Pháp bãi bỏ. Chúng tổ chức thi chung cho các thí sinh ở trường Nam Định thi cùng thí sinh trường Hà Nội. Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương đã diễn tả lại hiện thực bát nháo, hỗn độn và đau xót trước cảnh đó.
2. Nội dung tác phẩm Vịnh khoa thi Hương:Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương đã lên tiếng phản ánh hiện thực nhốn nháo và hỗn độn của khoa thi năm 1897. Qua đó còn thể hiện được thái độ mỉa mai, châm biếm những thói lố lăng, hợm hĩnh của bộ máy chính quyền của Pháp lúc bấy giờ, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương - Đu - me ở trường thi là tên đứng đầu. Qua đó, Trần Tế Xương cũng đã bày tỏ thái độ đau đớn và chua xót trước cảnh của những kì thi đang ngày dần suy tàn. Đồng thời, tác giả còn thể hiện được sự căm phẫn và lo lắng trước cảnh nước mất nhà tan.
a.Mở bài
Giới thiệu khái quát về nhà thơ Trần Tế Xương, ông là một nhà thơ tài hoa, ông có nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng mang tính trào phúng và châm biếm đặc sắc.
Giới thiệu khái quát về bài thơ, hoàn cảnh sáng tác và nội dung chính.
b.Thân bài
- Hai câu đề
Hai câu đề nói về sự kiện: Theo truyền thống Việt Nam thì khoa thi Hương diễn ra ba năm một lần. Sự kiện tưởng như không có gì thú vị và đặc biệt, có thể thấy nó giống như một thông báo, một thông tin rất đỗi bình thường.
Tác giả sử dụng từ “lẫn” đã thành công trong việc thể hiện sự ô hợp, nhốn nháo và hỗn độn của kỳ thi. Đây cũng chính là điều bất thường mà Trần Tế Xương muốn nói đến.
Hai câu đề được viết theo kiểu câu tự sự, nó kể lại một kì thi với tất cả những sự hỗn độn, nhốn nháo và thiếu nghiêm túc trong buổi giao thời, khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược.
- Hai câu thực
Hình ảnh các sĩ tử được khắc họa cực kỳ chân thật: lôi thôi, vai đeo lọ. Nhìn chung thì các sĩ tử đi thi đều có dáng vẻ luộm thuộm và nhếch nhác.
Hình ảnh quan trường được Tú Xương diễn tả: Miệng thét loa, ậm ọe. Những tên quan trường ra oai, hống hách, nạt nộ nhưng đó là cái oai giả tạo.
Ở hè cầu thực Trần tế Xương đã sử dụng từ láy tượng thanh và tượng hình như ậm ọe, lôi thôi. Sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đối câu nhằm diễn tả sự nhốn nháo, lộn xộn, ô hợp của trường thi. Mặc dù đây là một kỳ thi Hương quan trọng của nhà nước nhưng các sĩ tử và quan trường lại không nghiêm túc. Cảnh trường thi qua cái nhìn của Trần Tế Xương là sự suy vong trầm trọng của một nền học vấn, phản ánh sự lỗi thời của đạo Nho nước ta thời bấy giờ
- Hai câu luận
Miêu tả hình ảnh quan sứ, viên quan người Pháp được đón tiếp linh đình, trọng thể, còn mụ đầm, vợ quan sứ thì ăn mặc diêm dúa và điệu đà. Điều này phản ánh sự phô trương, hình thức màu mè, không đúng nghi lễ của một kỳ thi quan trọng. Đồng thời, Trần Tế Xương sử dụng nghệ thuật đối để bày tỏ sự mỉa mai, châm bía và hạ nhục bọn thực dân, quan lại. Tất cả đều như báo hiệu về một sự sa sút về chất lượng của các cuộc thi cử và bản chất của xã hội phong kiến.
- Hai câu kết
Tâm trạng và thái độ của Trần Tế Xương đối với cảnh tượng trường thi. Trần Tế Xương ngao ngán, đau xót trước sự sa sút của đất nước ta thời bấy giờ. Tác giả bày tỏ thái độ mỉa mai, phẫn nộ đối với chế độ thi cử đương thời. Hai câu kết trong tác phẩm như một lời nhắn nhủ đối với các sĩ tử, để họ biết về nỗi nhục khi mất nước.
c. Kết bài
Cảm nhận và đánh giá chung về tác phẩm
Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương sử dụng ngôn ngữ bình dị, dễ hiểu mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc. Trần tế Xương đã rách thành công trong việc sử dụng các biện pháp tu từ như đảo ngữ để ám chỉ được sự lộn xộn và hỗn độn của một kỳ thi Hương trong thời kỳ thực dân phong kiến. Từng tiếng thơ như là tiếng lòng của ông bài tỏ được nỗi niềm của một người yêu nước trước sự biến chất của một xã hội, của một kỳ thi quan trọng.
5. Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương hay nhất:Trần Tế Xương được biết đến là tác giả của hơn 100 tác phẩm văn chương nổi tiếng, điển hình như Thương vợ, Văn tế sống vợ, Ông cò, Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ…Trước cảnh đất nước rơi vào tay giặc, những tác phẩm của Trần Tế Xương như một bức tranh diễn tả sự đau xót của một con người khi mất nước. Đồng thời, từng câu chữ và lời thơ của ông như đang tố cáo tội ác, sự hung tàn của bọn thực dân. Một trong số những tác phẩm lên tiếng tố cáo, phản ánh tội ác, sự sa đọa của bọn xâm lược phải kể đến Vịnh khoa thi hương.
Mở đầu bài thơ, hai câu đề diễn tả truyền thống thi cử của đất nước Việt Nam, cứ ba năm sẽ tổ chức một kỳ thi hương.
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
Có thể thấy, kỳ thi hương này được tổ chức một cách bình thường, theo thường lệ thì cứ ba năm sẽ tổ chức một lần. Điều đáng nói trong kỳ thi này đó chính là các thí sinh dự thi ở Hà Nội lại bị dồn về Nam Định. Trần Tế Xương đã rất khéo léo trong việc dùng từ “lẫn” để nói lên tình trạng hỗn loạn, tạp nham của khoa thi hương năm ấy. Hai câu đề được viết theo phong cách tự sự, nhằm kể lại sự lộn xộn của kỳ thi hương dưới sự cai quản của thực dân phong kiến.
Sang hai câu thực, tác giả lại một lần nhấn mạnh tình trạng hỗn độn, tạp nham của kỳ thi năm ấy.
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
Tác giả đặt từ “lôi thôi” lên đầu câu nhằm phản ánh và nhấn mạnh vẻ lếch thếch, lôi thôi, không một chút gọn gàng của các vị sĩ tử khi tham gia kì thi hương. Thông thường, những sĩ tử khi tham gia kỳ thi hương đều là những người ham học, ham đọc sách, toát lên mình một vẻ thư sinh lịch sự, luôn chỉnh chu và gọn gàng. Vậy mà kỳ thi hương này, hầu như các sĩ tử đều đi thi với vẻ lôi thôi, xốc xếch, ăn mặc bần tiện, không gọn gàng “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ”. Có thể thấy, hầu như những người sĩ tử đều mất đi cái vẻ thanh lịch và tao nhã vốn có của một thư sinh ham đọc sách.
Không chỉ thí sinh mất đi vẻ thanh tao, tri thức mà những vị giám khảo cũng mất đi vẻ nghiêm nghị, đáng kính và nghiêm túc như trước nữa. “Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”, quan trường, những vị giám khảo mang dáng vẻ như ngoài chợ, uy phong một cách giả tạo, ậm oẹ chẳng thành một câu nói hoàn chỉnh. Một kỳ thi hương diễn ra với hình ảnh các sĩ tử lôi thôi, xiêu vẹo, còn quan thì đều là những kẻ vênh váo, dựa hơi, không có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Còn điều gì đáng buồn cho một kỳ thi lớn của đất nước.
Tiếp theo, hai câu luận của bài thơ như ấn ý chê bai, phê phán bọn quan lại, thực dân diêm dúa và phô trương.
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”
Theo như lịch sử có ghi lại thì kỳ thi Hương Nam Đinh Dậu 1897 thì có vợ chồng toàn quyền phó và vợ chồng tôn công sứ Nam Định đến tham dự. Chúng ta biết rằng ở trường thi luôn tồn tại không khí căng thẳng nhưng quan sứ và vợ vẫn được đón tiếp một cách{"userId":long-la-gi-short-la-gi-long-short-trong-chung-khoan/,"userName":" long "}trọng, hoành tráng, Đôi vợ chồng được các quan trường đón tiếp một cách niềm nở, mưa không đến mà, nắng không đến đầu.Còn gì trớ trêu thay khi kẻ xâm lược nước ta lại được đón tiếp một cách trịnh trọng nhất, được đặt lên một vị trí cao nhất. Điều này chứng tỏ được một thực trạng đến đau lòng của nước ta thời bấy giờ đó chính là một xã hội mà thực dân lên nắm quyền hành điều khiển và xã hội phong kiến chỉ đóng vai trò là bù nhìn. Không dừng lại ở việc miêu tả cảnh đón tiếp quan sứ mà Tú Xương còn bày tỏ sự mỉa mai và phê phán. Chúng ta thấy rằng Tú Xương đã dùng từ vô cùng đắt giá,Tú Xương gọi quan sứ một cách quan trọng nhưng lại gọi vợ của chúng là mụ đầm. Trong tiếng Việt nước ta thì mụ là một từ dùng để chỉ những đàn bà không ra gì, đó là một cách gọi thô tục và mỉa mai. Có thể nói Tú Xương đã chửi một cách vô cùng sắc bé vừa châm biếm nhưng cũng bày tỏ được nỗi đau xót căm hận của một con người khi phải chứng kiến cảnh đất nước bị giặc đô hộ.
Cuối cùng trước cảnh hỗn loạn và biến chất ấy nhà thơ Tú Xương đã phải thốt lên rằng:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Hai câu kết của bài thơ Vịnh khoa thi Hương là lời tự vấn của bản thân cũng là lời tự vấn của những người đồng cảnh ngộ. Hỏi rằng có mấy ai cùng nghỉ được đến nỗi nhục của cả nước mắt nhà tan mà cùng nhau đứng lên hành động?
Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần tế Xương là sự kết hợp thành công của cả hiện thực và trữ tình. Từ việc miêu tả lại một kỳ thi Hương đã bị thoái hóa biến chất có sĩ tử và quan lại trở nên nhốn nháo, hỗn độn nhà thơ đã tinh tế vẽ nên một bức tranh đất nước bị tù đày bị đàn áp bởi thực dân phong kiến. Ngoài ra Trần tế Xương đã thành công trong việc bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh đất nước bị giặc ngoại xâm.Bài thơ sử dụng ngôn ngữ bình dị dễ hiểu từ ngữ có tính tạo hình đã thành công vẻ nên bức tranh biếm họa về kỳ thi Hương của đất nước khi bị thực dân đày đọa, xâm chiếm.
03/03/2024
Tú Xương là một nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ châm biếm, hài hước trên diễn đàn thơ ca Việt Nam. Trong sự nghiệp đồ sộ của mình, ông có tới mười ba bài vừa thơ vừa phú nói thuộc đề tài "thi cử" với thái độ mỉa mai, phẫn uất với chế độ thi cử đương thời. "Vịnh khoa thi Hương" là bài thơ trong số mười ba bài thơ đó. Qua bài thơ, Tú Xương muốn vẽ nên cái hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội nửa thực dân nửa phong kiến qua hình ảnh một kì thi Hương quan trọng cũng đồng thời mượn đó nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước.
"Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà".
"Vịnh khoa thi Hương" là một bức tranh chân thực sống động về chế độ thi cử của Việt Nam những năm cuối triều Nguyễn, trước con mắt giám sát của bọn thực dân Pháp. Đó là một bức tranh một kì thi long trọng mà lại được tổ chức thật là lố lăng, nhốn nháo.
Mở đầu bài thơ, Tú Xương đã khéo léo dẫn vào trong thơ của mình hình ảnh của một kì thi hương với những đặc điểm giống và khác so với trước kia. Thứ nhất, kì thi hương được "nhà nước" mở ba năm một lần như thường lệ. "Nhà nước ba năm mở một khoa". Đây là đặc điểm quy định bình thường của lệ thi cử nước nhà xưa nay. Thế nhưng, đặc điểm thứ hai mới làm cho người ta kinh ngạc.
"Trường Nam thi lẫn với trường Hà". Vốn là hai nơi khác nhau, hai trường thi khác nhau, vậy mà năm nay thí sinh của hai trường này lại ngồi trộn "lẫn" với nhau. Lý do là vì khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi ở Hà Nội bị bãi bỏ, "nhà nước" dồn các sĩ tử ở Hà Nội phải xuống trường Nam Định để thi. Đây là điểm bất thường mà năm nay mới. Hơn thế, Tú Xương cũng dùng ở đây chữ "lẫn" để diễn tả khung cảnh nhốn nháo, ô hợp của trường thi, đối lập với sự trang nghiêm cần có trong một kì thi hương quan trọng của triều đình. Hai câu đề đã làm tốt vai trò mở đầu, giới thiệu của nó, để đến hai câu tiếp theo, người đọc được chứng kiến, kiểm nghiệm ngay cái sự nhốn nháo đã nói ở trên:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Một khung cảnh thật là tạp nham, thật là nhốn nháo. Nào là sĩ tử đi thi, nào là quan lại coi thi cứ nhốn nháo hết cả lên, chẳng có quy cách của một kì thi hương quan trọng của triều đình. Hai nhân vật chính trong kì thi được bộc lộ, khắc họa thật rõ nét. Đồng thời cũng cho người đọc chúng ta thấy được cái tính cách, quy cách của trường thi năm nay thật khác biệt so với thời xưa. "Sĩ tử" là những người đi thi, đáng ra phải trông thật nho nhã, trang trọng, vậy mà ở đây toàn thấy là sự luộm thuộm, lôi thôi với bao nhiêu chai với lọ, thật nhếch nhác quá đỗi.
Tú Xương đã cố ý đảo chữ "lôi thôi" lên đầu câu để nhấn mạnh cái sự nhếch nhác của các sĩ tử trong mùa thi hương lần này. Hình ảnh cái "lọ" - vốn được cho là đựng mực, đựng nước uống của sĩ tử, nhưng lại "đeo" trên vai. Nghe sao có vẻ mỉa mai đến thế. Cái hình ảnh ấy như đang gợi lên sự xiêu vẹo, sự đổ gãy, lếch thếch của những kẻ sau này vốn sẽ trở thành những trụ cột tương lai của đất nước. Và hơn thế, ông cũng muốn nhấn rằng những kẻ "vai đeo lọ" kia là những kẻ sĩ, những kẻ có tri thức trong xã hội mà lại không thể giữ cho mình cái phong thái mang danh kẻ sĩ ấy.
Không chỉ vậy, Tú Xương cũng nhấn mạnh thật kĩ hình ảnh của lũ "quan trường" - quan coi thi ở trường thi. Ông cũng đã tìm ra cho chúng một từ ngữ thật xứng đáng "ậm ọe". "Ậm ọe quan trường miệng thét loa". Nếu như lũ sĩ tử "lôi thôi", nhếch nhác bao nhiêu thì lũ quan trường lại "ậm ọe", lố lăng bấy nhiêu. Quả đúng là một từ ngữ sáng tạo xứng danh cái tên Tú Xương. Cái âm thanh "ậm ọe" ấy chỉ là những thanh âm ú ớ, không rõ tiếng rõ lời, nhưng lại được gân lên bằng sự la lối của đám quan lại trường thi. Nó cũng miêu tả cái sự phách lối, giáo điều, ra vẻ của đám quan trường ấy.
Tú Xương đã đóng vai một nhà nhiếp ảnh để thu lại những hình ảnh chân thực nhất ở trường thi năm ấy. Bởi thi hương xưa có số lượng sĩ tử rất đông, diễn ra trên bãi đất trống, vậy nên phải dùng loa thì mới có thể nghe rõ được việc gọi tên. Thế nhưng, cái sự trang trọng trong việc gọi tên vào thi của kì thi hương ấy đã bị những kẻ làm quan kia lấn át, làm lu mờ bởi sự phách lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi mà chẳng có chút thực quyền nào. Cho nên, kì thi hương ấy, không chỉ đám sĩ tử mất đi cái phong thái của một kẻ sĩ học chữ Nho mà đám quan lại cũng mất đi sự tôn kính, trang nghiêm của một kì thi lớn của đất nước.
Hai câu thơ đối nhau song song, làm nổi bật lên cái khung cảnh của trường thi. Nhưng trong đó, người ta thấy không chỉ là bóng dáng của trường thi với kì thi hương mà còn thấy khung cảnh hỗn tạp, nhốn nháo của đất nước khi rơi vào tình nửa thực dân nửa phong kiến. Và triều Nguyễn kia chẳng khác gì bức bình phong, một con rối bị điều khiển bởi chính quyền Pháp. Chúng ta cũng thấy được ở trong câu thơ, cái sự mỉa mai đến tột độ của tác giả về triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, đồng thời, hai câu thơ tiếp, ông bộc lộ một sự mỉa mai, khinh ghét đối với chính quyền thực dân:
"Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra"
Vẫn trung thành với lối tả thực, Tú Xương tiếp tục vẽ lại bức tranh trường thi khi mà nó được viếng thăm bởi tên Toàn quyền người Pháp cùng vợ của hắn. Không phải ngẫu nhiên mà Tú Xương lại đặt hình ảnh này vào trong hai câu thơ chủ chốt của bài thơ. Bởi hình ảnh của một "ông Tây" với "bà đầm" phản ánh thật đúng với cái tình cảnh của nước ta thời bấy giờ. Đó là xã hội mà người dân trở thành nô lệ, triều đình là một bức bình phong còn thực quyền ở trong tay người Pháp. Một kẻ cướp nước mà lại được đến tham quan một trường thi quan trọng, lại được đón tiếp bằng "lọng" bằng "cờ" thì thật là sự long trọng, kính cẩn đầy mỉa mai.
Không chỉ vậy, quan Tây bà đầm còn được miêu tả là được ngồi lên vị trí cao nhất của trường thi. Tú Xương đang ám chỉ điều gì? Phải chăng là cảnh nước mất nhà tan đã diễn ra ngay trước mắt? Thế nhưng, phải thật tinh tế mới nhận ra, Tú Xương đã dùng thơ Đường làm vũ khí để mỉa mai thật sắc bén, để bày tỏ thái độ của mình đối với lũ cướp nước kia.
Sử dụng nghệ thuật thơ đối xứng, Tú Xương đặt cái "váy" của bà đầm và cái "lọng" của ông quan Tây được đặt ngang bằng, ghép hai hình ảnh đó lại, người ta thấy đó là mỉa mai đầy châm biếm, câu thơ như "chửi thẳng" vào mặt viên quan sứ người Tây kia. Không chỉ thế, tác giả đã dùng từ "quan sứ" để nói về ông quan tây nhưng lại dùng từ "mụ đầm" khi nói về vợ của ông ta, đây chẳng phải là một sự khinh bỉ, một sự "chơi xỏ" mà Tú Xương dành cho viên Toàn quyền Pháp kia hay sao? Bởi ai cũng biết, từ "mụ" để chỉ những hạng đàn bà không ra gì, gọi vợ của "quan sứ" là "mụ" thì khác gì nói ông "quan sứ" kia chỉ là "thằng" mà thôi sao?
Quả thật, cái chửi của Tú Xương sâu cay và thâm thúy đến nhường nào! Thế mới thấy, thơ Tú Xương không chỉ miêu tả cái hiện thực lạnh lùng, tàn khốc mà còn lồng cả vào đó tiếng cười sâu cay, đắng ngọt, phơi bày trong đó cái tâm của một kẻ sĩ yêu nước, đau lòng vì nước mất nhà tan nhưng vì lực yếu sức mỏng mà đành dùng lời văn làm vũ khí cho mình. Để đến cuối cùng, cái cười kia chẳng thể át nổi niềm đau xót trong tâm của ông, nó bật ra thành tiếng:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà".
"Đất Bắc" vốn là từ chỉ Hà Nội, là nơi hội tụ của ngàn năm kinh đô, là nơi của bậc đế vương ngự trị, nơi của anh tài khắp đất nước hội tụ về đây. Lời thơ như một tiếng than đau xót vô vàn của Tú Xương khi mắt phải nhìn thấy đất nước đang dần rơi vào tay giặc. Ông đang nói với chính mình hay là đang kêu gọi ai, ai còn nghĩ tới nỗi nhục mất nước, ai còn tự hào với dân tộc bốn ngàn năm lịch sử này chăng? Đọc câu thơ mà ta thấy sự xót xa, đau xót của tác giả trước tình cảnh của đất nước. "Nhân tài" ở đây chỉ ai, nó chỉ là một từ phiếm chỉ, là những kẻ đã từng một lần mơ ước được bước qua cánh cửa thi hương này, hay là những kẻ đã từng đặt chân đến đây hãy nhìn xem "cảnh nước nhà"? Ở đây, Tú Xương không quyết liệt thể hiện tư tưởng kêu gọi mọi người chung tay dẹp loạn như trong thơ Nguyễn Đình Chiểu:
"Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"
Ở thơ Tú Xương, người ta chỉ thấy gợi lên sự nhục nhã khi mất nước, không mạnh bạo, quyết liệt như thơ Nguyễn Đình Chiểu. Ổng chỉ chỉ ra sự làm ngơ của những kẻ sĩ yêu nước đã quay đầu, làm ngơ, không quan tâm đến, mắt thấy tai nghe để lũ giặc cướp nước và bè lũ tay sai của chúng làm tan nát đất nước của mình. Ông kêu gọi họ hãy "ngoảnh cổ mà trông" - "ngoảnh cổ" ngoái lại nhìn, để thấy, để chứng kiến đất nước đang suy tàn trước lũ giặc. Ở hai câu kết này, cái cười châm biếm của Tú Xương chẳng còn nữa mà nhường chỗ cho nỗi đau xót vô vàn khi đất nước lâm nạn. Dường như ta còn thấy được cả những giọt nước mắt của ông cả trong tiếng cười sâu cay kia.
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Tú Xương viết bằng thể thơ Đường thất ngôn bát cú. Với tài hoa, cùng nghệ thuật châm biếm sâu cay, ông đã dựng lên bức tranh về trường thi Hương những năm cuối triều Nguyễn với sự nhốn nháo, lố lăng của lũ quan trường, sự nhếch nhác của đám sĩ tử. Đồng thời, qua đó, ông cũng muốn vẽ lên cái hiện thực về xã hội phong kiến nửa thực dân bằng cái nhìn đầy mỉa mai của mình và gửi vào trong đó, tâm tư của một kẻ sĩ yêu nước trước tình cảnh của đất nước.
Vịnh khoa thi Hương là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Tú Xương vừa hiện thực lại vừa trữ tình. Qua đó khẳng định được tài năng của ông, khi chỉ cần vẽ lên một khung cảnh một kì thi Hương mà đã nói lên được cả cái bản chất của xã hội lúc bấy giờ.
Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản miễn phí!
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Copyright © 2025 fqa.vn All Rights Reserved