
22/03/2024
Làm sao để có câu trả lời hay nhất?

22/03/2024

22/03/2024

Câu 1: PTBĐ: Miêu tả
Câu 2. Phong cách ngôn ngữ: nghệ thuật.
Câu 3. Những từ ngữ miêu tả thác nước và đá trên sông Đà trong đoạn văn trên:
- Tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên.
- Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
- Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhằn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này.
Câu 4. Các biện pháp tu từ có trong đoạn văn là:
- So sánh: thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo..
Nhân hoá: oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.., rống lên, mai phục, nhổm cả dậy, ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó,…
→ Tác dụng của biện pháp tu từ đó là: gợi hình ảnh con sông Đà hùng vĩ, dữ dội. Không còn là con sông bình thường, Sông Đà như có linh hồn, đầy tâm địa, nham hiểm.
Câu 5. Nội dung của đoạn trích là: đoạn văn tả về thác nước và đá ở sông Đà ( hay còn gọi là thạch thuỷ trận)
- Từ xa, thác nước biểu thị sức mạnh qua âm thanh dữ dội.
- Đến gần, thác nước hiện ra với hình ảnh sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đá.
Câu 6:
Những quan sát, suy nghĩ, xúc cảm của ông rất tinh vi nhưng cũng rất chân thật. Xuyên suốt cả tác phẩm là lời văn mạnh mẽ, dữ dội và đầy chiều sâu kiến thức lẫn chiều sâu của ngôn ngữ văn chương. Có điều, đôi khi ông quá mê mải, sa đà vào khối lượng tri thức ngồn ngộn, sa đà vào việc tỉa tót ngôn ngữ văn chương, đã làm cho một số đoạn văn trở nên nặng nề, khô khan và tản mạn. Lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của câu chuyện về con sông Đà, nhà văn bộc lộ cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của mình. Qua Người lái đò Sông Đà ta luôn bắt gặp những lớp từ ngữ phong phú, những hình ảnh ví von độc đáo, bất ngờ. Bài viết cho ta cảm giác Nguyễn Tuân muốn đưa tài năng viết văn của mình với vẻ đẹp của tạo hóa, của thiên nhiên và con người. Chính vì thế mà sông Đà trong văn chương ông vừa là sông Đà hiện thực, vừa là con sông Đà nghệ thuật mang tình yêu của Nguyễn Tuân.
Câu 7: Một tác phẩm cùng viết về con sông mà em đã được học trong chương trình là Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Câu 8. Đoạn văn mang đến người đọc những cảm nhận rất rõ ràng, sinh động, khoáng đạt về sự dữ dội, mãnh liệt của dòng sông hung bạo. Người đọc yêu thích mạo hiểm thì tò mò thích thú khám phá, trải nghiệm những cảm xúc, cảm giác phi thường còn với những người “yếu vía” thì cảnh tượng hùng vĩ, hiểm trở của dòng sông cũng khiến họ phải rùng mình, khiếp đảm, sợ hãi.
Phần 2: Tự luận
Từ xưa, con người xem mùa thu là mùa của thi ca. Mùa thu luôn mang đến cho thi nhân những cảm xúc thật đẹp. Thơ viết về mùa thu dệt nên những trang vàng trong nền văn học của mọi dân tộc. Góp vào kho tàng ấy, Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu đã mang đến một rung động lạ, làm phong phú thêm ý niệm về mùa xuân. Cảm xúc về mùa thu đến được biểu hiện tinh tế trong khổ 1 của bài thơ:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn mở đầu, Hữu Thỉnh đã đem đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên. Những tín hiệu của mùa thu với những nét phác họa tài hoa: hương ổi, gió se, sương chùng chình giản dị mà hiện lên đầy gợi cảm. Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Từ “bỗng” được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong giây phút ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới chợt nhận ra hương ổi. Vì sao lại là hương ổi mà không phải là các hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bài thơ về mùa thu các hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu,… nhưng Hữu Thỉnh thì không.
Giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Hương ổi, thứ hương thơm quê mùa, dân dã. Hương ổi không nồng nàn. Đó là thứ hương dìu dịu, nhè nhẹ. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương. Thế mà ít ai nhận ra sự hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Chúng ta thật sự rung động trước cái “bỗng nhận ra” ấy của tác giả. Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như thế!
Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín. Gió se là một làn gió nhẹ, mang chút hơi lạnh, còn được gọi là gió heo mây. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Từ “phả” được dùng trong câu thơ mới độc đáo làm sao! “Phả” là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột.Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai nhận ra, thế mà Hữu Thỉnh đã bất chợt nhận ra và xao xuyến trước cái hương đồng gió nội ấy.
Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đây là những nét riêng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy hẳn cái tình quê của Hữu Thỉnh phải đậm đà lắm. Câu thơ: “Bỗng nhận ra hương ổi. Phả vào trong gió se” còn có cái cảm giác ngỡ ngàng bối rối: bỗng nhận ra. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.
Không chỉ có “hương ổi’ trong “gió se” mà tiết trời sang thu còn có hình ảnh: “Sương chùng chình qua ngõ”. Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Từ chùng chình gợi lên nhiều liên tưởng. Tác giả nhân hóa làn sương nhằm diễn ta sự cố ý đi chậm chạp của nó khi chuyển động. Nó bay qua ngõ, giăng giắc và giậu rào, vào hàng cây khô trước ngõ đầu thôn,làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả yên bình. Nó có cái vẻ duyên dáng, yểu điệu của một làn sương, một hình bóng của thiếu nữ hay của một người con gái nào đấy. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy “chùng chình” còn là gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự, hay tâm trạng của tác giả cũng “chùng chình”?.
Khổ thơ thứ nhất khép lại bằng câu thơ “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” không có nghĩa là không chắc chắn, mà là thể hiện cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên và có chút bâng khuâng. Từ ngọn gió se mang theo hương ổi thơm chín, vàng ươm đến cái duyên dáng, yểu điệu của một làn sương cứ chùng chình không vội vàng trước ngõ, tác giả đã nhận dần nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng nhưng khá rõ rệt của tiết trời và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống nơi làng quê.
Khổ thơ ngắn mà đã để lại cho ta biết bao rung động. Ta như cảm thấy một hồn quê, một tình quê đi về trong câu chữ làm lòng ta ấm áp. Hình ảnh quê hương như càng thêm gần gũi, yêu mến. Mùa thu lặng lẽ và nhẹ nhàng. Những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn. có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Quả thực ta thấy lòng thanh thản vô cùng mà lại vô cùng nôn nao nhớ đến những miền quê xa vắng trong nắng thu khi đọc mấy câu thơ của Hữu Thỉnh.
Dẫu biết rằng thời gian bốn mùa luôn luân chuyển hết xuân đến hạ, thu sang rồi đông tới, thế nhưng ta vẫn cảm thấy ngỡ ngàng khi quên đi nhịp sống sôi động hàng ngày mà lắng nghe tiếng mùa thu đi để cảm nhận thời khắc đặc biệt bước chuyển mùa của thiên nhiên. Khổ thơ 1 bài thơ Sang thu giúp ta chiêm ngưỡng lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu nay ta hững hờ. Đó là lúc hồn ta run lên những cảm nhận dung dị.

22/03/2024
Apple_o88MzeGPw7Ob8qwKBWUE2KBM5aY2
Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo các phương thức biểu đạt miêu tả và so sánh. Tác giả sử dụng hình ảnh, âm thanh và cảm giác để tạo nên bức tranh về cảnh thiên nhiên.
Câu 2: Đoạn văn trên thuộc phong cách ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên. Tác giả sử dụng từ ngữ tường thuật chi tiết về cảnh vật, âm thanh và cảm giác để đưa người đọc vào không gian của sông Đà và thác nước.
Câu 3: Các từ ngữ miêu tả thác nước và đá trên sông Đà trong đoạn văn trên bao gồm:
Câu 4: Biện pháp tu từ trong đoạn văn là so sánh. Tác giả so sánh tiếng nước thác với tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa.
Câu 5: Nội dung của đoạn trích là việc miêu tả cảnh thiên nhiên tại sông Đà, đặc biệt là thác nước và hòn đá.
Câu 6: Từ đoạn văn trên, ta thấy Nguyễn Tuân có khả năng miêu tả thiên nhiên một cách sống động và sắc nét. Ông sử dụng từ ngữ và hình ảnh để tạo ra một bức tranh về cảnh vật, khiến người đọc cảm nhận được vẻ đẹp hoang sơ và mạnh mẽ của thiên nhiên.
Câu 7: Một tác phẩm cùng viết về con sông mà em đã được học trong chương trình là “Sông Đà” của tác giả Nguyễn Tuân.
Câu 8: Đoạn văn làm nảy nở trong anh/chị những cảm xúc, cảm giác kỳ vĩ, hoang sơ, và mạnh mẽ. Từ việc miêu tả âm thanh của thác nước, hình ảnh sóng bọt trắng xóa và hòn đá ngỗ ngược, đọc giả có thể cảm nhận được sự mê hoặc và kích thích của cảnh vật thiên nhiên này.
Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản miễn phí!
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Copyright © 2025 fqa.vn All Rights Reserved