Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
* Giống nhau:
- Về cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước: cả ba bản Hiến pháp đều thiết lập mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo kiểu tách kiệng lập, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Về xác định vị trí tối cao của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước: cả ba bản Hiến pháp đều quy định Chủ tịch nước là người đứng đầu bộ máy nhà nước và có quyền hạn tối cao. Tuy nhiên, điểm khác biệt là ở chỗ, Hiến pháp năm 1946 không quy định rõ cơ chế bầu ra Chủ tịch nước (chỉ quy định về việc Chính phủ phải thường xuyên báo cáo với Quốc hội và xin phép Quốc hội khi muốn đưa quân viên ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài đưa quân vào nước), còn ở hai bản Hiến pháp năm 1959 và năm 1992 lại quy định cụ thể hơn về vấn đề này. Cụ thể, Hiến pháp năm 1959 quy định Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước và các Phó Chủ tịch nước; Hiến pháp năm 1992 quy định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số những người ứng cử.
- Về vai trò của nhân dân đối với Hiến pháp: cả ba bản Hiến pháp đều khẳng định quyền lực thuộc về nhân dân và mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại diện do mình bầu ra.
* Khác nhau:
- Về tên gọi của bản Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946 mang tên gọi là “Bản Tạm ước”, Hiến pháp năm 1959 mang tên gọi là “Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” và Hiến pháp năm 1992 mang tên gọi là “Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
- Về cách thức xây dựng và ban hành Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946 được xây dựng thông qua một quá trình thảo luận dân chủ trong nhân dân và được Quốc hội thông qua, không thông qua một cuộc trưng cầu ý dân. Trong khi đó, để xây dựng nên Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã quyết định thành lập một Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp và tiến hành lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của nhân dân trước khi Quốc hội thông qua.
- Về phạm vi điều chỉnh: Hiến pháp năm 1946 chỉ quy định về tổ chức nhà nước ở thời kỳ chuyển tiếp, tức là chỉ quy định về tổ chức nhà nước từ cấp tỉnh trở lên mà chưa quy định về tổ chức ở địa phương. Còn ở hai bản Hiến pháp năm 1959 và năm 1992 thì lại quy định về tổ chức nhà nước ở tất cả các cấp chính quyền.
- Về kỹ thuật lập hiến: Kỹ thuật lập hiến của ba bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959 và năm 1992 nhìn chung khá tương đồng. Cả ba bản Hiến pháp đều sử dụng kỹ thuật lập danh sách để liệt kê các quyền con người và quyền công dân; sử dụng kỹ thuật diễn giải để làm rõ nội dung của từng điều luật… Tuy nhiên, cũng có một số điểm khác biệt nhất định. Ví dụ, nếu như ở Hiến pháp năm 1946, các quyền cơ bản của công dân được quy định rải rác ở nhiều điều khoản khác nhau thì đến Hiến pháp năm 1959, các quyền này đã được tập trung quy định tại một mục riêng biệt. Tương tự, nếu như ở Hiến pháp năm 1946, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được quy định khá rời rạc thì đến Hiến pháp năm 1992, các nguyên tắc này đã được sắp xếp, bố cục một cách logic và hệ thống hơn.