logo fqa gpt

banner fqa app
Tải APP FQA Hỏi & đáp bài tập
Tải ngay
tmignhokk

14/05/2024

Từ đó, em hãy liên hệ đoạn thơ này với đoạn thơ/bài thơ khác để thấy sự tương đồng và khác biệt giữa hai văn bản trong việc thể hiện chủ đề những kỉ niệm thời thơ ấu
Trả lời câu hỏi của tmignhokk
right
Viết câu trả lời

Làm sao để có câu trả lời hay nhất?

  • Luôn có GIẢI THÍCH các bước giải
  • Không copy câu trả lời của Timi
  • Không sao chép trên mạng
  • Không spam câu trả lời để nhận điểm
  • Spam sẽ bị khóa tài khoản
CÂU TRẢ LỜI
Timi

14/05/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Đoạn thơ trên nói về kỉ niệm thời thơ ấu của tác giả khi cùng bà sống và học hỏi từ bà. Để liên hệ với đoạn thơ khác, chúng ta có thể sử dụng đoạn thơ sau đây: "Vườn mơ gửi gắm nối dây diều Khúc bổng đưa hồn đẫm sáo tiêu mấy Nhịp âm thầm ru bến hiểu đôi Dòng lặng lẽ gợi bờ xiêu trò Vui giả cưới anh làm kiệu hứng Khởi đùa chơi đám rước chiều phận Bạc phai tình câu nợ thiếu ôm Sầu mỏi gối nhặt bông diêu." (Trích Bài không đề 1, NXB Văn Học, 2019) Cả hai đoạn thơ này đều tập trung vào ký ức tuổi thơ của tác giả. Tuy nhiên, trong "Bếp lửa" của Bằng Việt, tác giả nhớ lại những ngày sống cùng bà và được dạy dỗ từ bà, trong khi "Bài không đề 1" của NXB Văn Học mang lại hình ảnh vui chơi, buổi chiều phận và sự thiếu vắng. Điểm khác biệt rõ ràng là cách tiếp cận chủ đề ký ức tuổi thơ: một là qua việc sống chung với người già và học hỏi từ họ, hai là qua việc tái hiện lại những khoảnh khắc vui chơi và những xúc cảm thiếu vắng.
Câu trả lời uy tín

Bằng Việt là nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông làm thơ từ thời là học sinh, sinh viên. Bài thơ “Bếp lửa” viết năm 1963, khi ông đang học đại học ở nước ngoài. Đây là bài thơ tiêu biểu nhất của ông - một hồn thơ tài hoa và nồng hậu nghĩa tình. Bài thơ có đoạn:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa.

... Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Đoạn thơ đầy xúc động nhắc lại những kỉ niệm êm đềm, sâu sắc một thời gian khổ “tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Ngọn lửa ấy được nhóm lên bằng bàn tay của hai bà cháu, vì cuộc sống cơm áo cực nhọc đời thường. Ngọn lửa ấy, bếp lửa ấy là của tình yêu thương “ấp iu nồng đượm” mà bà đã sưởi ấm tâm hồn đứa cháu ngây thơ từ những ngày xửa ngày xưa, khi cháu vừa “lên bốn tuổi”. Tiếng kêu tha thiết của chim tu hú trên những cánh đồng xa gợi nhớ gợi thương, làm nhà thơ bồi hồi sống lại những kỉ niệm sâu sắc thời thơ bé, bâng khuâng nhớ lại những chuyện kể của bà. “Tám năm ròng”... - một thời gian khổ đã qua, nhưng cháu làm sao quên được? Cháu hồi tưởng, cháu hỏi bà hay tự hỏi mình?

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Hình ảnh ngọn lửa và âm thanh tiếng kêu chim tu hú có một sức mạnh biểu cảm vang xa, tạo nên những liên tưởng nghĩa tình thấm thía.

Sáu câu thơ tiếp theo với những chi tiết cụ thể và cảm động, Bằng Việt đã vẽ lên hình ảnh của bà, người bà đáng kính đáng yêu, suốt những năm dài khó nhọc đã chăm sóc, dạy dỗ cháu nên người:

Mẹ cùng cha bận công tác không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học…
Câu thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng, nhịp thơ êm ái hài hòa. Từ “bà”, từ “cháu” được nhắc lại nhiều lần “Cháu ở cùng bà... bà bảo... bà dạy... bà chăm cháu học”, âm điệu quấn quýt như sự gắn bó giữa hai tâm hồn bà - cháu trong tình yêu thương. Cháu lớn khôn, trưởng thành trong đôi bàn tay nâng niu, trong tấm lòng yêu thương vô hạn của bà. Bà đã thức khuya dậy sớm “nhóm lửa” làm cho tâm hồn thơ bé của cháu sống trong cảnh xa mẹ cha trở nên ấm áp. Ngọn lửa mà bà đã nhóm lên từ “bếp lửa” ấy đã sưởi ấm và soi sáng cuộc đời đi lên phía trước của cháu.

Mang nặng công ơn của bà, trong đáy tâm hồn cháu - nhà thơ - hình ảnh của bà hiện lên, chẳng bao giờ mờ phai. Tiếng kêu của con chim tu hú với hình ảnh của bà kết hợp hài hòa, được diễn tả dưới hình thức nghệ thuật cảm thán và câu hỏi tu từ đã khắc sâu nỗi nhớ thương da diết, một nỗi bồn chồn trong tâm tưởng và kí ức:

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa.

Âm điệu của vần thơ nhẹ nhàng, tha thiết, sâu lắng gợi lên những rung cảm man mác, bâng khuâng. Tiếng chim tu hú như vọng vào năm tháng, bồi hồi...

Hình ảnh “Bếp lửa” gắn liền với mái nhà êm ấm, cũng như âm thanh của tiếng chim tu hú gắn liền với cánh đồng. Bằng Việt đã khéo lựa chọn hai hình ảnh ấy để nói lên lòng kính yêu, sự thương nhớ và biết ơn bà, với tình yêu quê hương. Bếp lửa và tiếng chim trở thành biểu tượng mang vẻ đẹp nhân văn của một tình quê nồng hậu, về kỷ niệm tuổi thơ ngọt ngào.

Viết về chủ đề những kỉ niệm thời thơ ấu, tác giả Nguyễn Duy với bài thơ “Đò Lèn" cũng thông qua những hình ảnh quen thuộc: mò cua bắt tép, gánh hàng rong quen thuộc trong công việc thường nhật để bộc lộ nỗi nhớ về bà. Tuy nhiên, cách thể hiện của Nguyễn Duy có phần trực tiếp, thẳng thắn hơn Bằng Việt. Trong khi bài thơ “Đò Lèn” thể hiện tâm trạng nuối tiếc, ăn năn, hối lỗi muộn màng với giọng thơ xót xa, ngậm ngùi, “Bếp lửa” lại bộc lộ sự thấu hiểu những công lao khó nhọc, vất vả và tình thương muôn vàn của bà bằng giọng thơ trang trọng, mực thước.
Mỗi chúng ta, ai mà chẳng lưu giữ trong tim mình những âm thanh, cảnh sắc quê nhà, những kỷ niệm cảm động, mái tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ của ông bà, người đã sinh ra cha mẹ ta? Bài thơ của Bằng Việt chẳng khác nào lời ru của mẹ, chuyện kể của bà... từ những năm tháng tuổi thơ vọng về. Những tình cảm đẹp ấy được diễn tả rất thơ…

5211021

14/05/2024

Hình ảnh những người bà, người mẹ qua bao năm tháng vẫn luôn là một điều gì đó thiêng liêng trong lòng mỗi đứa con xa quê. Nếu như Bằng Việt mang nỗi nhớ bà vào hình ảnh của Bếp lửa thì Xuân Quỳnh lại nhớ về người bà của mình qua tiếng gà cục tác. Hình ảnh những người bà tần tảo hiện lên trong hai bài thơ: Bếp lửa và Tiếng gà trưa mang những nét đẹp vô ngần của người phụ nữ Việt Nam.

Bằng Việt viết về kỷ niệm ấu thơ thuở hoa còn là nụ nhưng nhà thơ đã chọn cho mình một chi tiết độc đáo, tuy bình dị nhưng không phải ai cũng nhận ra: "Bếp lửa". Nhớ về tuổi thơ, nghĩ về bếp lửa, tác giả lại nhớ, lại nghĩ đến hình ảnh người bà thương yêu – một hình ảnh xuyên suốt bài thơ, lúc nào cũng chập chờn lay động:

"Một bếp lửa chơi vơi sương sớm.

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa."

Hình ảnh "bếp lửa" được điệp lại đến hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh "bếp lửa" là hình ảnh thân quen, khơi nguồn cảm xúc cho cháu, nó như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Từ láy "chờn vờn" tạc hình ngọn lửa, hay chính là kỷ niệm ùa về như ngọn lửa lòng thôi thúc người cháu. Nhớ về hình ảnh bếp lửa là nhớ về bàn tay gầy tỉ mẩn của người bà, chắt chiu, gìn giữ, lo lắng cho đứa cháu ruột rà. Vị nồng đượm của khói bay trên bếp vẫn còn đó, trong miền kí ức của cháu thơ. Và sâu trong hình ảnh ấy chính là bóng dáng của người bà kính yêu, nghĩ về bếp lửa cháu nhớ đến bà, cháu thương những năm tháng bà tần tảo, hy sinh.

"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"

Đọng lại trong câu thơ là chữ "thương", thể hiện tình cảm của người cháu dành cho bà. Bà vất vả, lặng lẽ trong khung cảnh "biết mấy nắng mưa", làm sao tính được có bao nhiêu mưa nắng khổ cực đã đi qua đời bà.

Cháu thương người bà vất vả, tần tảo để khi nhớ về bà, trong kí ức của cháu hiện về những gian khổ thời còn bé! Bao kỉ niệm tuổi thơ bỗng sống dậy trong trái tim đong đầy nỗi nhớ trong cháu.

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay."

Từ ghép "mòn mỏi" được chia tách ra, đan xen với từ đói đã gợi cái cảm giác nạn đói ấy vừa kéo dài và còn làm khô cạn sức người lẫn gia súc. Kỉ niệm đáng nhớ nhất đối với người cháu là khói bếp, luồng khói được hun từ bếp lửa thân thuộc. Khói hun nhèm lên mắt, vị khói khiến sống mũi cháu cay cay hay chính những khó khăn, đói khổ của năm tháng xưa khiến khi nghĩ về mà lòng nôn nao vừa xúc động, vừa xót xa.

Bà vẫn âm thầm, lặng lẽ góp nhóm lửa với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấm lòng mình, muốn đem những thứ tốt nhất để nuôi dưỡng cháu.

"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế."

Cháu cùng bà trải qua bao năm tháng, cùng bà sống bên cánh đồng quê hương, cùng bà nhen nhóm yêu thương mỗi ngày bên bếp lửa thân thuộc. "Tám năm" - khoảng thời gian đủ dài để cháu khắc cốt ghi tâm những lời bà dạy, những câu chuyện kể của bà về ngày ở Huế, về những kỉ niệm xưa. Tiếng tu hú vang vọng trong bài thơ như gọi quá khứ trở về, khơi dậy những câu chuyện xưa. Bà giống như người mẹ hiền, thay vai trò của mẹ để nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo ban cháu từng ngày. Có lẽ nỗi nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương che chở của người bà. Bà chính là tổ ấm, nơi che chở vững chắc, chỗ dựa thoải mái, bình yên cho cháu. Vì thế, bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của cha mẹ. Cho nên, người cháu luôn khắc ghi tình cảm thiêng liêng của bà: "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc". Chữ "thương" đã tất cả tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu sắc, tình cảm mà người cháu dành cho bà. Bà phải khổ cực biết bao trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, và cả bao mất mát:

"Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!"

Có lẽ phải xa cha mẹ từ bé, sống bên bà bao năm mà tình cảm của cháu dành cho bà luôn lớn lao như thế. Cháu luôn trân trọng công dạy dỗ của bà, những ngày bà dạy cháu làm, bà ân cần chỉ cháu học. Cả những lần bà dặn cháu viết thư đừng kể ra những khó nhọc nơi quê nhà khiến ba mẹ phải để tâm lo lắng. Bà vẫn vậy, luôn lắng lo cho con cho cháu, dẫu có vất vả, có nhọc nhằn vẫn chẳng lời kêu than, trách oan. Hình ảnh tú hú vẫn kêu xa trên những cánh đồng, lại chẳng thể đến cùng bà phải chăng chính là hình ảnh của cháu lúc này, nỗi nhớ bà đã diết, tiếng gọi bà vọng về nhưng chẳng thể trở về bên bà, chỉ có thể gửi gắm nỗi nhớ qua từng lời thơ.

"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!"

Bà dù chịu khổ nhưng không muốn cho con biết. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quí của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn công lao to lớn nhất, là động lực cho những chiến sĩ mạnh mẽ đối mặt với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Những dòng thơ cuối tuôn trào như nỗi xúc động tha thiết mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà cùng bếp lửa hiện lên càng chân thực và sống động. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến cho ngọn lửa ấy cháy sáng bất diệt, bà cũng là người nhóm lên ngọn lửa của yêu thương để sưởi ấm tuổi thơ cháu trong suốt cuộc đời, kỉ niệm về bà là những kỉ niệm tuyệt nhất, sâu sắc nhất. Và rồi, hình ảnh bà nhập vào ngọn lửa để sáng lên:

"Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.."

Điệp ngữ "một ngọn lửa" ý muốn nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu. Hình ảnh bếp lửa mà bà nhen sớm sớm, chiều chiều không phải chỉ bằng nhiên liệu người ta vẫn thường dùng nhóm lửa mà đã sáng bừng lên ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương luôn ủ sẵn trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng, ngọn lửa thắp sáng lên niềm tin, ý chí, hi vọng và nghị lực luôn bền bỉ và bất diệt. Qua từng dòng thơ, ta càng cảm nhận được hình ảnh người bà kiên cường, chẳng quản ngại hy sinh, vẫn luôn tin yêu vào ngày gia đình sum vầy, ngày đất nước hòa bình, thống nhất. Và bằng tất cả tình yêu thương, người cháu tiếp nhận ngọn lửa ấy,

Tiếp tục duy trì và bùng cháy ở ngày mai.

Đến đây, ngọn lửa từ bếp lửa đã hóa thân thành biểu tượng của sức mạnh tinh thần, ý chí chiến đấu và niềm tin vĩnh hằng vào nguồn cội sinh tồn. Lửa là nguồn sống của vạn vật, của con người. Từ bàn tay bà, ngọn lửa được truyền tới muôn thế hệ mai sau. Bất chợt, nhà thơ trở về với những suy ngẫm riêng tư về người bà và bếp lửa:

"Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.."

Cụm từ "biết mấy nắng mưa" được lặp lại như để nhắc nhớ lại những gian khó, vất vả mà bà phải chịu đựng. Từ đó làm sáng lên những phẩm chất, vẻ đẹp cao quý của bà. Bà đã dành cả cuộc đời lận đận của mình để giữ ấm bếp lửa. Mấy chục năm trời việc trở mình dậy sớm nhóm lên bếp mỗi sớm mai đã trở thành thói quen, thành nếp sống. Bà nhóm lên ngọn lửa để làm ra cho cháu những bữa cơm no, những niềm vui ấm áp. Từ bếp lửa của bà, những bữa cơm, bữa cháo cứ đều đặn bất chấp khó khăn. Bếp lửa của bà kết nối xóm làng. Nhờ bếp lửa ấy mà người cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với mọi người xung quanh. Một bếp lửa bình thường thôi mà ẩn giấu những điều phi thường. Bởi thế, nhà thơ cảm phục thốt lên:

"Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!"

Kì lạ vì bếp lửa ấy đã cháy qua mấy mươi năm, bất chấp ngày mưa, ngày nắng, bất chấp giông bão, bất chấp sự hủy hoại của kẻ thù. Mấy mươi năm nó chưa bao giờ đứt đoạn và nó sẽ lại cháy lên rực rỡ hơn, mạnh mẽ hơn đến muôn đời sau. Giờ đây, khi ở nơi xa tổ quốc kỉ niệm tuổi thơ cứ bồi hồi trong lòng tác giả, thổn thức không ngui. Dù nay đã có muôn ánh lửa nhưng người cháu vẫn không quên ngọn lửa quê hương được nhóm lên từ đôi bàn tay cằn cỗi của người bà kính yêu. Kí ức xa xăm vẫn còn in đậm trong nỗi nhớ không thể nào quên:

"Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?"

Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Những câu thơ giản dị, dễ hiểu đã khắc họa một cách chân thực mà sâu sắc hình ảnh người bà, người mẹ Việt Nam tảo tần, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh, niềm tin và nghị lực. Ta không chỉ trông thấy tình cảm thiêng liêng ấy ở bài Bếp lửa mà còn bắt gặp ở áng văn khác của thi nhân Xuân Quỳnh với bài thơ Tiếng gà trưa.

"Trên đường hành quân xa

Dừng chân bên xóm nhỏ

Tiếng gà ai nhảy ổ:

Cục.. cục tác cục ta

Nghe xao động nắng trưa

Nghe bàn chân đỡ mỏi

Nghe gọi về tuổi thơ."

Tiếng gà ấy đã gọi dậy cả một tuổi thơ với những kỷ niệm êm đềm của người chiến sĩ giải phóng quân. Bao nhiêu cảm xúc, niềm vui, hoài niệm bùng lên trong phút giây ngắn ngủi được nghỉ ngơi. Tuổi thơ của người chiến sĩ trong thơ Xuân Quỳnh là một tuổi thơ với sự thiếu vắng người mẹ, xa bố và ở cùng với người bà tần tảo, phải bòn từng đồng bạc lo cho đứa cháu nhỏ. Tuổi thơ của người chiến sĩ ấy tuy không được sống trong tình yêu của mẹ nhưng lại được bao dung, bù đắp bởi tình yêu thương hết mực của người bà. Bà đã ôm ấp đứa cháu nhỏ, trao cho tất cả yêu thương, bồi đắp những thiếu hụt về tình cảm gia đình. Vậy nên tất thảy những khó khăn, vất vả đều đè lên đôi vai gầy guộc của bà.

Ở bà, người ta thấy hiện lên tất cả những phẩm chất cao đẹp, đáng quý của một người phụ nữ Việt Nam mà trước tiên là tình yêu thương cháu vô bờ bến. Hình ảnh người bà già cả nhưng luôn ở sát bên dạy bảo, chăm lo cho đứa cháu nhỏ. Tiếng mắng yêu thương của người bà vang lên trong tiếng gà ấy:

"Tiếng gà trưa

Có tiếng bà vẫn mắng

- Gà đẻ mà mày nhìn

Rồi sau này lang mặt!

Cháu về lấy gương soi

Lòng dại thơ lo lắng."

Dân gian vẫn lưu truyền rằng gà đẻ mà nhìn thì sẽ bị "lang" mặt. Chính vì thế, người bà trong tác phẩm Tiếng gà trưa đã mắng yêu đứa cháu của mình khi nó vô tình nhìn thấy cảnh "gà đẻ". Điều đó đã cho thấy sự quan tâm, chăm sóc sát sao của người bà dành cho đứa cháu của mình. Bà ở bên cạnh cháu mọi lúc, lo lắng cho người cháu, dạy bảo cháu những điều hay.

Những quả trứng gà ấy là cả một tương lai với đàn gà nhỏ khác, tiếp nối để lo thêm cho đứa cháu nhỏ. Mỗi quả trứng là một chú gà, là một tương lai của cháu, vậy nên bà nâng niu, trân trọng vô cùng. Đàn gà là kế sinh nhai, là bộ quần áo mới của đứa cháu nhỏ khi tết đến xuân về, chính vì thế, bà luôn chăm lo, cẩn thận chăm sóc đàn gà:

"Cứ hàng năm hàng năm

Khi gió mùa đông tới

Bà lo đàn gà toi

Mong trời đừng sương muối

Để cuối năm bán gà

Cháu được quần áo mới."

Tiếng gà trưa vang lên gợi lại cho người chiến sĩ - người cháu tất cả những gì đẹp nhất, êm đềm nhất của tuổi thơ. Hình ảnh người bà in đậm trong tâm trí người chiến sĩ bởi cả tuổi thơ anh đã đi qua cùng bà. Mỗi lúc bà nâng niu từng quả trứng là nâng niu từng ước mơ, khát vọng và hạnh phúc của anh. Cả cuộc đời bà đã dành cho anh hết thảnh những gì tốt đẹp nhất trong những năm tháng bình yên nhất của cuộc đời nơi làng quê nghèo. Cũng chính vì thế, tình cảm bà cháu của anh đã hòa chung với tình yêu đất nước, đó chính là lý do để anh lên đường chiến đấu vì Tổ quốc:

"Cháu chiến đấu hôm nay

Vì lòng yêu Tổ quốc

Vì xóm làng thân thuộc

Bà ơi, cũng vì bà

Vì tiếng gà cục tác

Ổ trứng hồng tuổi thơ"

Như vậy, cả hai bài thơ đã thể hiện tình cảm thắm thiết, tình bà cháu vô cùng thiêng liêng, cao cả. Hình ảnh người bà hiện lên trong kí ức của những người cháu, đó là người tần tảo sớm khuya, là người luôn lo lắng cho con cháu, là người với tình yêu thương cháu vô bờ bến. Tình cảm ấy đều bắt nguồn từ những sự vật bình thường, giản dị mà cũng rất đỗi quen thuộc trong đời sống, ấy là cái "bếp lửa" hay chỉ đơn thuần là một "tiếng gà" thân quen.

Cũng từ tình cảm bà cháu, tình cảm gia đình, tình yêu những sự vật giản dị đó mà các tác giả đã khẳng định tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng trong trái tim mỗi con người. Tác giả cũng đã gửi gắm những triết lí vô cùng sâu sắc: Những gì gắn bó thân thiết với tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình của cuộc đời. Và tình cảm thiêng liêng, biết ơn chân thành của người cháu đối với bà là một biểu hiện cụ thể của tình cảm gia đình, rộng ra đó là tình cảm với quê hương, với cội nguồn.

Nhưng hai bài thơ này cũng có điểm khác biệt. Đó là "Bếp lửa" được Bằng Việt bộc lộ trực tiếp qua dòng cảm xúc, đó là nỗi lòng của người cháu xa quê. Còn trong "Tiếng gà trưa" có sự hóa thân kì diệu của nữ sĩ vào tâm hồn người lính trẻ để bộc lộ những suy ngẫm, tình cảm chân thành, đằm thắm, sâu sắc của người lính về tình bà cháu, tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.

Có thể nói, tuổi thơ đã chắp cánh cho mỗi con người lớn khôn, chính vì thế những kỉ niệm sâu sắc về hai người bà của hai tác giả vẫn luôn sống mãi trong trái tim của những đứa cháu thân thương. Dù cuộc đời có bao sóng gió thì bà cũng đã từng là người cùng cháu vượt qua những sóng gió ấy, giúp cho cháu trưởng thành, lớn khôn. Vì thế, bà luôn là người mà cháu tôn kính và thương nhớ.

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

right Đặt câu hỏi ngay

Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản miễn phí!

Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn

LIÊN KẾT

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)

Copyright © 2025 fqa.vn All Rights Reserved