logo fqa gpt

banner fqa app
Tải APP FQA Hỏi & đáp bài tập
Tải ngay

Toàn bộ kiến thức cần nhớ về hiệp định Giơnevơ

Admin FQA

24/03/2023, 16:40

924

Hiệp định Giơnevơ (Giơnevơ  Accords), một thỏa thuận được ký kết vào năm 1954 tại Giơnevơ , Thụy Sĩ, để kết thúc chiến tranh ở Đông Dương (Indochina). Đồng thời  chia sẻ quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ tại Đông Dương giữa các bên tham gia. Hiệp định Giơnevơ được ký kết giữa các bên tham gia bao gồm Việt Nam, Pháp, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô.

Đây là một trong những kiến thức quan trọng nhất trong môn Lịch sử. Đặc biệt là đối với các bạn thi khối C. Cùng Admin điểm lại những kiến thức “key” chính cần nhớ về bản hiệp định Giơnevơ trong bài chia sẻ dưới đây nhé!

Hiệp định Giơnevơ (Giơnevơ  Accords) được ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Giơnevơ , Thụy Sĩ, sau cuộc đàm phán kéo dài hơn hai tháng giữa các đại diện của Việt Nam, Pháp và các quốc gia tham dự Hội nghị Giơnevơ .

Hiệp định này được lập ra để chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương và giải quyết vấn đề chính trị ở Việt Nam. Theo hiệp định, Việt Nam sẽ được chia thành hai phần, với đường parallel 17 là đường chia. Phía Bắc Việt Nam được quyết định là một nước độc lập, trong khi phía Nam Việt Nam được chia thành hai khu vực, một khu vực dưới sự kiểm soát của Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam) và một khu vực dưới sự kiểm soát của Việt Minh (Bắc Việt Nam). Hiệp định cũng quy định việc tổ chức cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam vào tháng 7 năm 1956, nhằm thống nhất hai miền Việt Nam.

Tuy nhiên, sau khi hiệp định được ký kết, các bên không thực hiện đầy đủ các cam kết của mình. Việt Minh không thực hiện việc rút quân khỏi miền Nam và việc tổ chức cuộc bầu cử tổng thống bị trì hoãn. Sự bất đồng giữa hai miền Việt Nam vẫn tiếp diễn, dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài đến năm 1975.

1. Về phía Việt Nam

Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng đến cùng của thực dân Pháp và sự viện trợ của đế quốc Mỹ. Chiến thắng này đã giáng một đòn quyết định vào ý chí hiếu chiến của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo cơ sở quân sự cho đấu tranh ngoại giao kết thúc cuộc Kháng chiến.

2. Đối thủ

 Cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương là gánh nặng kinh tế, xã hội đối với Pháp. Họ muốn có một giải pháp thương lượng nên đã quyết định nhờ Mỹ hỗ trợ để thực hiện kế hoạch quân sự Nava, hy vọng đạt được một kết quả trong danh dự. Tuy nhiên, nỗ lực cuối cùng này cũng thất bại sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ (07/05/1954).

3. Quốc tế

Hòa bình là mong ước của nhân dân thế giới. Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) thực sự là cuộc đọ sức không phân thắng bại giữa hai phe. Trong quan hệ quốc tế, xu hướng nới lỏng ngày càng rõ nét. Tháng 1-1954, ngoại trưởng Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp họp tại Béc-lin đã nhất trí tổ chức một hội nghị quốc tế nhằm giải quyết vấn đề chia cắt Triều Tiên và chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Hoàn cảnh của cuộc Kháng chiến, so sánh lực lượng giữa thực dân Mỹ và Pháp và xu thế chung trên thế giới là giải quyết hòa bình các tranh chấp đã dẫn đến việc Việt Nam ký Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21-7-1954.

Hội nghị Giơnevơ được triệu tập vào tháng 5 năm 1954 bởi các nước láng giềng Việt Nam, bao gồm Trung Quốc, Pháp, Liên Xô, Anh, Mỹ và các quốc gia khác, với mục đích tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho tình hình đang leo thang ở Việt Nam.

Hội nghị được tổ chức trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam giữa Việt Minh, phong trào cách mạng dân tộc Việt Nam, và quân đội Pháp đã bùng nổ và kéo dài suốt hơn 8 năm. Chiến tranh đã làm hàng triệu người thiệt mạng và gây ra nhiều tổn thất cho cả hai bên.

Hội nghị Giơnevơ  đã nhấn mạnh vào ý tưởng giải quyết tình hình bằng đàm phán và đưa ra một kế hoạch dựa trên sự chia sẻ quyền lực và kiểm soát. Cụ thể, hội nghị chấp nhận chia Việt Nam thành hai phần, với đường 17 độ vĩ Bắc là ranh giới, với miền Bắc được kiểm soát bởi Việt Minh và miền Nam được kiểm soát bởi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Theo Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Khoan, Hội nghị Giơ-ne-vơ là thỏa thuận của các nước lớn như Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp. Khi đó, Trung Quốc không có ghế trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nên không thể tham gia. Cuộc họp được tổ chức vào thời điểm Stalin vừa qua đời,  Liên Xô bất ổn  và nước này cần làm hòa  với phương Tây. Pháp đã kiệt sức ở Đông Dương, Anh tranh thủ giành lại vai trò đã mất trong Thế chiến thứ hai và nước này đang  đối phó với các phong trào  độc lập  thuộc địa. Tất cả các quốc gia này phải ngồi lại với nhau. Còn Mỹ muốn có lập trường thao túng đối với Tây Âu nên không tham dự hội nghị, thậm chí còn phá rối. Vì thế đơn phương đối đầu với phương Tây, Liên Xô cũng yêu cầu Trung Quốc tham gia hội nghị để nâng cao sự cân bằng. Về phía Trung Quốc, quốc gia có lợi thế khi tham gia Chiến tranh Triều Tiên, là một cường quốc và giáp với cả Hàn Quốc và Đông Dương. Trung Quốc cũng muốn đứng vào hàng ngũ các cường quốc và có một ghế trong Hội đồng Bảo an. 

Ngày 25-1-1954, Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô họp tại khu vực Béc-lin do Mỹ nắm giữ để quyết định thống nhất nước Đức. Tại hội nghị, Ngoại trưởng Pháp Georges Bizet đã gặp riêng Ngoại trưởng Liên Xô Molotov, Ngoại trưởng Anh Eden, Ngoại trưởng Mỹ Dulles để thuyết phục các nước này thảo luận vấn đề Đông Dương  tại các hội nghị  trong tương lai. Trước đó, Molotov đã đề nghị với Bidault rằng Liên Xô sẽ giúp Pháp thu xếp đình chiến tại Đông Dương với điều kiện Pháp rút khỏi Cộng đồng Phòng thủ châu Âu nhưng Pháp từ chối. Hội nghị ở Berlin kết thúc ngày 18/2/1954 mà không mang lại kết quả nào về việc thống nhất nước Đức tuy nhiên các bên tham dự đồng ý lời đề nghị của Ngoại trưởng Liên Xô Molotov mở cuộc đàm phán bao gồm 5 nước lớn tại Giơnevơ  vào ngày 26/4/1954 để bàn về việc hòa giải và tái lập hòa bình tại Triều Tiên và Đông Dương.

Bộ trưởng Quốc phòng Pháp René Pleven cho rằng tình hình chính trị và quân sự tại Việt Nam hoàn toàn không có lợi cho Pháp. Cá nhân René Pleven cũng cho rằng Việt Minh không được dân chúng ưa chuộng nhưng khiến người ta sợ và tôn trọng những lãnh thổ do Việt Minh kiểm soát ngày càng tăng. Pleven cho rằng phải cố gắng hết sức ở Hội nghị Giơnevơ  để tìm một giải pháp có thể chấp nhận được nhưng ông cũng khuyên phải tránh tiếp xúc trực tiếp với Hồ Chí Minh để Quốc gia Việt Nam không coi đó là việc Pháp phản bội đồng minh.

Tuy nhiên, phía Việt Minh lại cho rằng họ nhận được sự ủng hộ rộng rãi không chỉ của người dân trong nước mà còn cả Việt kiều ở nước ngoài, đặc biệt là Việt kiều sống tại Pháp. Việc Việt Minh nhận được sự ủng hộ rộng rãi một cách tự nguyện của người dân trong cả nước cũng được các sử gia phương Tây xác nhận.

Thậm chí, ông Bùi Diễm, sau này là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ, cũng thừa nhận sự căm thù của người Việt dành cho quân đội Pháp, thậm chí ngay trong hàng ngũ Quân đội Quốc gia Việt Nam cũng có nhiều người tức giận khi bị người Pháp khinh miệt.

Ngày 10 tháng 3 năm 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp thuận tham dự Hội nghị Giơnevơ  theo đề nghị của Pháp. Ngày 8-5-1954, điện về Giơ-ne-vơ báo kết quả chiến dịch Điện Biên Phủ. Rạng sáng ngày 8-5-1954, vấn đề Đông Dương chính thức được đưa ra bàn đàm phán.

Như những chia sẻ ở trên, các bên tham dự vào hội nghị bao gồm:

  1. Phái đoàn Anh Quốc, do Anthony Eden làm trưởng đoàn.
  2. Phái đoàn Hoa Kỳ, do Bedell Smith làm trưởng đoàn.
  3. Phái đoàn Liên bang Xô viết, do Viacheslav Molotov làm trưởng đoàn.
  4. Phái đoàn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai làm trưởng đoàn.
  5. Phái đoàn Pháp, do Georges Bidault làm trưởng đoàn.
  6. Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn.
  7. Phái đoàn Quốc gia Việt Nam, do Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn sau thay thế bởi Nguyễn Trung Vinh rồi Trần Văn Đỗ (không được tham gia đàm phán tại hội nghị, việc đàm phán do phái đoàn Pháp thực hiện và chỉ thông báo lại sau khi ký kết).
  8. Phái đoàn Vương quốc Lào, do Phumi Sananikone làm trưởng đoàn (không tham gia đàm phán trực tiếp, ủy nhiệm cho phái đoàn Pháp).
  9. Phái đoàn Vương quốc Campuchia, do Tep Than, làm trưởng đoàn (không tham gia đàm phán trực tiếp, ủy nhiệm cho phái đoàn Pháp).
  10. Hai phái đoàn Pathet Lào và Khmer Issarak không được chính thức tham gia hội nghị mà ủy nhiệm cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các nguyện vọng của hai đoàn này được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trình bày trước hội nghị.
  11. Hai đồng chủ tịch Hội nghị là Liên Xô và Anh.

Trong quá trình diễn ra hội nghị và trước khi ký hiệp định Giơnevơ mỗi bên tham gia đều có những lập trường riêng. Cùng tìm hiểu lập trường các bên trước khi ký vào bản hiệp định Giơnevơ nhé. 

Lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đề ra lập trường 10 điểm:

  1. Pháp công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. 
  2. Ký một hiệp định về việc rút các lực lượng nước ngoài khỏi ba nước trong thời hạn do các bên tham chiến xác định. Đạt được thỏa thuận đóng quân Pháp hoặc Việt Nam trong một khu vực hạn chế trước khi rút quân. 
  3. Tổng tuyển cử tự do ở 3 nước, mỗi nước có 1 chính phủ. 
  4. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố ý định xem xét việc tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp và các điều kiện gia nhập. 
  5. Ba quốc gia công nhận lợi ích kinh tế và văn hóa của Pháp ở các quốc gia tương ứng. Sau khi Chính phủ thống nhất ra đời, các quan hệ kinh tế, văn hóa được điều hòa theo nguyên tắc bình đẳng và hội nhập. 
  6. Cả hai bên đều hứa sẽ không truy tố những người hợp tác với bên kia trong chiến tranh.
  7. Trao đổi tù binh và dân thường bị bắt trong chiến tranh
  8. Ngừng bắn toàn bộ và đồng thời trên toàn Đông Dương, ngừng triển khai các lực lượng vũ trang và khí tài mới đến Đông Dương, thành lập ủy ban quân sự chung giữa hai nước và ủy ban giám sát quốc tế để đảm bảo việc thi hành hiệp định. 
  9. Đường ranh giới quân sự không được coi là biên giới và sẽ chỉ tồn tại cho đến khi các cuộc bầu cử quốc hội để thành lập chính phủ liên minh hoàn tất. 
  10. Chấp nhận nhượng bộ về sự hiện diện của giới tuyến quân sự để đổi lấy việc quân đội nước ngoài rút khỏi Việt Nam. Thái độ ban đầu của Việt Nam là tập kết tại chỗ. Nếu không, chuyển sang phương án vượt đèo Đại Lãnh giữa Phú Yên và Khánh Hòa theo vĩ tuyến 13 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Đường ranh giới quân sự không được coi là biên giới.

Tuy nhiên, nếu xét về mặt chủ trương, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có mục tiêu “độc lập, thống nhất, dân chủ và hòa bình” với 4 phương châm:

  • Mục tiêu vẫn như cũ, nhưng có những con đường thẳng và những con đường quanh co để đạt được mục tiêu.
  • Tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, quyền bình đẳng và lợi ích tự nguyện của các bên
  • Chủ quan (nội lực Việt Nam) là điều kiện cơ bản để chiến thắng
  • Luôn đặt lợi ích của Việt Nam trong lợi ích của một phong trào xã hội chủ nghĩa hòa bình và dân chủ.

Thậm chí trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu, Hồ Chí Minh còn tuyên bố vào tháng 11/1953: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó... Cơ sở của đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”

Lập trường của Pháp

Pháp và Việt Nam coi trận Điện Biên Phủ là trận  quyết định lập trường của cả hai bên trước khi bước vào bàn đàm phán. Chính phủ hiếu chiến của Pháp phải đối mặt với áp lực nội bộ lớn khi phong trào phản chiến gia tăng, Đảng Cộng sản Pháp tăng vị thế trong Quốc hội và giải pháp Bảo Đại không thành công. Pháp muốn rút khỏi cuộc chiến trong danh dự và để bảo vệ những lợi ích còn  lại của mình ở Đông Dương.

Ban đầu, phái đoàn Pháp tại hội nghị có lập trường khá cứng rắn: đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để xoa dịu dư luận và giữ vững niềm tin vào chính phủ của Thủ tướng Laniel, đồng thời  cứu  quân đội Pháp khỏi tốn thời gian. vì ở Đông Dương. Phía Pháp chủ trương giải quyết các vấn đề quân sự theo kiểu Hàn Quốc. Chẳng hạn như ngừng bắn  mà không có giải pháp chính trị và giải giáp các lực lượng không chính quy. 

Sau một thời gian giữ lập trường cứng rắn, Pháp thất bại nặng nề trong trận Điện Biên Phủ, nội các của Thủ tướng Laniel bị dư luận Pháp chỉ trích, buộc chính phủ mới phải từ chức vào ngày 12 tháng 6. Mendez của Pháp, nhậm chức  ngày 18 tháng 6,  tuyên bố  sẽ từ chức nếu trong vòng một tháng không đạt được thỏa thuận ngừng bắn ở Đông Dương. Pháp hy vọng  thoát khỏi Chiến tranh Đông Dương trong danh dự trong khi duy trì lợi ích kinh tế và ảnh hưởng văn hóa của mình ở Lào, Campuchia và Nam Việt Nam. Pháp không chấp nhận kế hoạch vĩ tuyến 13 của Việt Nam. Vì chính phủ Bảo Đại Huệ vẫn cần thiết. Đồng thời, Pháp cần Đường 9 để tiếp tế cho Lào từ biển Baltic, sớm muộn sẽ mất Tây Nguyên và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Việt Nam cũng chiếm Nam Việt Nam. 

Pháp đề xuất Vĩ tuyến 18 buộc Việt Nam phải bỏ các vùng kháng chiến ở miền Trung gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, những vùng mà lực lượng Việt Nam rất mạnh cả về chính trị và quân sự. Bộ trưởng Quốc phòng Rene Pleven nhắc lại rằng “vấn đề Đông Dương chỉ có thể được giải quyết thông qua nhượng bộ Trung Quốc, công nhận ngoại giao và dỡ bỏ lệnh cấm vận (đối với Việt Nam)”.

Trưởng phái đoàn Pháp Méndez đặt vấn đề với phía Việt Nam rằng rất có thể Việt Nam sẽ chặn đường 9, giống như Liên Xô đã chặn Tây Berlin sau Thế chiến thứ hai. Với những diễn biến giữa Lào và Pháp, phái đoàn Việt Nam cảm thấy Đường 9 rất quan trọng đối với Pháp, chứ không phải là một mưu đồ đàm phán trước khi Pháp khó từ bỏ Lào như vậy. Tổng thống Eisenhower cũng buộc Tổng thống Kennedy ở lại Vương quốc Lào (thân -Pháp) bằng mọi giá.

Lập trường của Quốc gia Việt Nam

Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Giơnevơ  được ký kết 6 tuần, thủ tướng Pháp đã ký tắt dự thảo Hiệp ước Matignon (1954) với Thủ tướng Quốc gia Việt Nam. Bản dự thảo dự kiến công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập khỏi Chính phủ Pháp và là thành viên của khối Liên hiệp Pháp. 

Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Chính phủ Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Chính phủ Pháp ký sau này. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng Quốc gia Việt Nam vẫn bị ràng buộc bởi Hiệp định Giơnevơ, bởi vì chính phủ này chỉ sở hữu một vài thuộc tính của một chủ quyền đầy đủ, và đặc biệt là nó phụ thuộc vào Pháp về quốc phòng.

Theo Bernard B. Fall Quốc gia Việt Nam không đủ thực quyền để ký kết Hiệp định do lực lượng quân sự của chính quyền này quá nhỏ. Mặt khác, Hiệp ước Matignon mới chỉ được ký tắt dưới dạng ghi nhớ giữa 2 Thủ tướng chứ không phải nguyên thủ cao nhất của 2 bên (Tổng thống Pháp René Coty và Quốc trưởng Bảo Đại), nên nó vẫn chưa có hiệu lực pháp lý. 

Nhiều người đổ lỗi cho Quốc gia Việt Nam vì họ không có chữ ký trong Hiệp định, nhưng chính Pháp cũng từ chối ký vào Hiệp ước đã được thương thảo xong. Bảo Đại đã ở Pháp từ tháng 4 và  định giải quyết vấn đề chữ ký chính thức  trong vài tuần nữa, nhưng Hiệp định Giơnevơ  tiến triển quá nhanh và kế hoạch của ông bị đổ bể. Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Công ước Matignon  không bao giờ được ký kết[27]. Khi chính phủ của Thủ tướng Joseph Laniel nêu vấn đề  độc lập của Việt Nam, nó đã bị Quốc hội Pháp thẳng thừng bác bỏ. Khi tham gia đàm phán, phái đoàn Pháp  không tham khảo ý kiến ​​của Chính phủ Việt Nam, nhất là về vấn đề phân giới cắm mốc tạm thời.

Ông Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn quốc gia Việt Nam, tuyên bố không ký Hiệp định Giơnevơ  vì nó sẽ chia cắt đất nước Việt Nam và gây nguy hiểm cho nhà nước Việt Nam. Một đại diện của phái đoàn Việt Nam đưa ra một tuyên bố khác:

“Việc ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những điều khoản gây nguy hại nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam. Hiệp định đã nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và tước mất của (Quốc gia) Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ. Bộ Tư lệnh Pháp đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái đoàn quốc gia Việt Nam... chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”

Lập trường Campuchia

Chính phủ Hoàng gia Campuchia mong muốn độc lập hoàn toàn và chấm dứt chiến tranh trên lãnh thổ Campuchia. Quân đội Khmer Issarac buộc phải giải giáp, và đổi lại, chính phủ hoàng gia Campuchia chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử tự do để bầu ra một chính phủ mới, trong đó các thành viên của Khmer Issarac có thể tham gia với tư cách là ứng cử viên hoặc người được đề cử. Các thành viên của Khmer Issarak không bị phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào

Campuchia trung lập và sẽ không tham gia một liên minh quân sự vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc trừ khi an ninh của nước này bị đe dọa.

Lập trường của Lào

Quan điểm của Chính phủ Hoàng gia Lào cũng tương tự như của Chính phủ Hoàng gia Campuchia. Lào muốn độc lập hoàn toàn và chấm dứt chiến tranh trên lãnh thổ của mình. Quân đội Pathet Lào sẽ bỏ phiếu cho Phong Saree và Zambia 2 dưới sự giám sát quốc tế để đổi lấy việc chính phủ Lào chấp nhận tổng tuyển cử tự do để bầu ra chính phủ mới mà các đảng viên Pathet Lào có thể tham gia với tư cách ứng cử viên hoặc cử tri cần thiết phải hội tụ tại một bang. Các thành viên Pathet Lào không phải đối mặt với bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào.

Lào trung lập, không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, và hạn chế việc xây dựng căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ của mình trừ khi an ninh của nước này bị đe dọa.[21]

Lập trường của Anh

Anh không muốn tham gia vào một cuộc xâm lược Đông Dương khác của Pháp cùng với Hoa Kỳ. Cũng như không muốn làm suy yếu liên minh với Hoa Kỳ, không có sự lựa chọn có ủng hộ họ hay không, vì họ đã kiên quyết khuyên Hoa Kỳ nên hoãn các hành động quân sự ở Đông Dương. Bao gồm cả việc thành lập khối SEATO, cho đến khi Hoa Kỳ tìm ra một giải pháp hòa bình. Anh cũng chủ trương để Pháp đàm phán theo các điều kiện của mình. 

Đồng thời, Anh mời các nước thân Anh, trong đó có Mi-an-ma, tham gia hội nghị những loại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra khỏi hội nghị. Tuy nhiên, đề xuất của Anh đã bị Liên Xô từ chối do có sự tham gia trực tiếp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào cuộc chiến tranh với Pháp.

Lập trường của Hoa Kỳ

Gần cuối Chiến dịch Điện Biên Phủ, Hoa Kỳ kêu gọi Pháp đừng thất bại vì sợ rằng phong trào cộng sản sẽ lan rộng khắp Đông Nam Á. Phái đoàn Mỹ từ chối ký Công ước Giơnevơ , nhưng ra tuyên bố nước này: coi những hành động bạo lực lặp đi lặp lại là vi phạm Thỏa thuận Quan tâm và là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh quốc tế.

Trong tuyên bố về việc chia cắt Việt Nam trái với ý muốn của Bắc và Nam Triều Tiên, chính phủ Hoa Kỳ bày tỏ lập trường sẽ: tiếp tục tìm kiếm sự thống nhất thông qua các cuộc bầu cử tự do được Hoa Kỳ công nhận bởi Liên hợp quốc. Kết thúc hội nghị Giơ-ne-vơ, đại diện phái đoàn chính phủ Hoa Kỳ cho biết họ ghi nhận quyết định của các bên tham gia hội nghị Giơ-ne-vơ và cam kết tôn trọng các quyết định đó.

Thái độ của Liên Xô

Mục tiêu của Liên Xô là ngăn chặn mối đe dọa chiến tranh ngày càng tăng bên ngoài Đông Dương, đoàn kết các cường quốc phương Tây ủng hộ Hoa Kỳ và buộc Liên Xô phải cam kết bảo vệ Trung Quốc. Liên Xô cũng muốn ngăn cản quốc hội Pháp thông qua kế hoạch thành lập Cộng đồng phòng thủ châu Âu. Đồng thời, Liên Xô là nhà đấu tranh cho hòa bình thế giới và là người ủng hộ vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế. 

Lập trường của Trung Quốc

Hội nghị Giơ-ne-vơ là cơ hội quan trọng đưa Trung Quốc trở thành cường quốc ở châu Á, không nước nào có thể bỏ qua. Trung Quốc vừa thoát khỏi Chiến tranh Triều Tiên với nhiều tổn thất. Đồng thời Mao Trạch Đông đang chuẩn bị cho bước nhảy vọt vào hiện đại hóa nên cần rất nhiều nguồn lực vào thời điểm đó. Trung Quốc lúc đó không muốn chiến tranh ở Đông Dương tiếp tục để không phải viện trợ cho các nước Đông Dương. 

Về mặt chính trị, Trung Quốc cũng đang tận dụng cơ hội này để cải thiện vị thế của mình và giành được sự ủng hộ của phương Tây. Để đạt được mục tiêu đó, Trung Quốc đã cử một phái đoàn rất đông gồm 200 chuyên gia trong nhiều lĩnh vực do Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai dẫn đầu. 

Ngoài ra, vì Trung Quốc hiện không có vũ khí hạt nhân và không có phương tiện để tấn công Hoa Kỳ, nên việc tiếp tục chiến tranh có thể khiến Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam, hay thậm chí là Trung Quốc. Trước đó, Trung Quốc đã biết Mỹ lên kế hoạch tấn công đảo Hải Nam để giúp đỡ Đài Loan. Tuy nhiên, sau đó phía Mỹ đã khẳng định thông tin này sẽ không được thực hiện do Mỹ không còn muốn đối đầu trực tiếp với Trung Quốc. Tuy nhiên, phái đoàn Trung Quốc đã cố tình không thông báo cho phái đoàn Việt Nam về việc buộc Việt Nam phải chấp nhận phương án lấy Vĩ tuyến 17 làm Giới tuyến quân sự tạm thời.

Trung Quốc không quan tâm đến lợi ích cộng sản hay dân tộc chủ nghĩa của ba nước Đông Dương. Trung Quốc đang thỏa hiệp với phương Tây để giải quyết sự phân chia lãnh thổ bất lợi cho các dân tộc bản địa chống Pháp ở phương Tây. Thực hiện chia cắt vĩnh viễn Việt Nam và Lào. Để lôi kéo sự ủng hộ của Liên Xô đối với lập trường của Trung Quốc, phái đoàn Trung Quốc đã cố tình cung cấp những thông tin sai lệch về tình hình chiến trường Điện Biên Phủ để không làm Liên Xô tin rằng Việt Nam sẽ thắng và đưa ra các phương án đàm phán bất lợi cho Việt Nam. đề xuất. nó đã được. Mục đích cuối cùng của Trung Quốc là để các bên ký hiệp định về Đông Dương để tránh sự can thiệp của Mỹ. Trưởng phái đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai nói: Ba nước Đông Dương sẽ không tham gia vào bất kỳ liên minh quân sự nào, và không nước ngoài nào được phép thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình.

Hội nghị Giơnevơ trải qua 75 ngày với 31 phiên họp, trong đó có 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp Trưởng đoàn. Hội nghị thành 3 giai đoạn, cụ thể như sau:

Giai đoạn 1 (từ 8/5/1954 đến 19/6/1954)

Bên cạnh việc trao đổi các vấn đề trong chương trình nghị sự, các đoàn đã trình bày lập trường giải quyết vấn đề Việt Nam và vấn đề Đông Dương.

Đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đã yêu cầu có mặt đại biểu kháng chiến Lào và Campuchia. Ngày 10-5-1954, đồng chí Phạm Văn Đồng đọc diễn văn trong đó vạch ra 8 quan điểm của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm giải quyết đồng thời cả vấn đề quân sự và chính trị, đồng thời giải quyết ba vấn đề cơ bản. thời gian. Campuchia. Phạm Văn Đồng nhấn mạnh Pháp phải công nhận các quyền nhà nước cơ bản của nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào. Việc quân đội nước ngoài rút khỏi ba nước Đông Dương là cơ sở quan trọng nhất để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trung Quốc và Liên Xô ủng hộ lập trường của Việt Nam.

Tại phiên họp kín ngày 25-5-1954, đồng chí Phạm Văn Đôn đề xuất hai nguyên tắc về vấn đề đình chiến. Vì vậy mỗi bên đều có diện tích tương đối lớn và đầy đủ thích hợp cho các hoạt động hành chính và kinh tế. Các đại diện Bộ chỉ huy liên quan trên mặt đất sẽ xem xét việc ngừng bắn để trình lên Hội nghị xem xét và thông qua.

Ngày 27-5-1954, phái đoàn Pháp thông báo đại diện của hai Bộ Tư lệnh sẽ gặp nhau tại Giơ-ne-vơ để xem xét đường biên giới của khu vực và bàn về đề nghị điều động lực lượng mà trọng điểm là Đông Dương. Việt Nam Cộng Hòa làm cơ sở cho Cùng ngày, phái đoàn Trung Quốc nêu ra 6 vấn đề quân sự, trong đó có ngừng bắn hoàn toàn và đồng thời ở ba nước Đông Dương và thành lập ủy ban kiểm soát quốc tế cho các nước trung lập, nhưng không đề cập đến giá trị chính trị của nghị quyết. Ngày 29-5-1954, sau 4 phiên họp toàn thể và 8 cuộc họp của các trưởng đoàn, Hội nghị Giơnevơ đã quyết định: Tại Giơ-ne-vơ, thảo luận về việc triển khai lực lượng theo hiệp định ngừng bắn bắt đầu từ việc phân chia lực lượng ở Việt Nam.

Giai đoạn 2 (từ 20/6/1954 đến 10/7/1954)

Trong thời gian này, hầu hết đại diện của phái đoàn các nước khác đều về báo cáo, riêng Phạm Văn Đồng, đại diện của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ở lại. Phó trưởng đoàn sẽ tổ chức các phiên họp, phiên họp chặt chẽ của tiểu ban quân sự Việt Nam và Pháp. Hội nghị chủ yếu bàn về các vấn đề sưu tập, điều quân, thả tù binh, di chuyển giữa hai miền. Tuy nhiên, có rất ít tiến triển tại các cuộc họp kín ở Geneva trong giai đoạn này.

Giai đoạn 3 (từ 11 đến 21/7/1954): Nối lại các cuộc đàm phán cấp Bộ trưởng

Trong 10 ngày cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ, nhiều cuộc gặp gỡ, hội đàm cá nhân, ba bên, liên bên đã diễn ra giữa các Trưởng đoàn. Cuộc họp chủ yếu thông qua các văn kiện có điều khoản về thực hiện Hiệp định. Cuối cùng, phiên họp toàn thể kết thúc bằng phiên họp toàn thể.

Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phái đoàn Pháp đàm phán rất gay gắt về việc chia vĩ tuyến (16 vì phái đoàn ta muốn có đường 9 từ Savannakhet đến Quảng Trị) và các thỏa thuận khác sẽ được ký kết vào sáng ngày 21 tháng 7 năm 1954, đặc biệt liên quan đến Campuchia. Ngày 21-7-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về hòa bình ở Việt Nam, Lào và Campuchia kết thúc. Đại hội tiếp nhận tài liệu.

Theo hiệp định Giơnevơ, Việt Nam sẽ được chia thành hai phần: miền Bắc và miền Nam, với khu vực phi quân sự ở giữa được gọi là Đường 17. Miền Bắc sẽ được kiểm soát bởi Việt Minh và miền Nam sẽ được kiểm soát bởi chính phủ Việt Nam Cộng hòa được thành lập mới.

Tuy nhiên, hiệp định Giơnevơ  đã không giải quyết được những mâu thuẫn giữa các bên và chỉ kéo dài được vài năm trước khi chiến tranh lại bùng phát. Vào năm 1975, Bắc và Nam Việt Nam đã thống nhất thành một quốc gia độc lập.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Pháp đã rút khỏi Việt Nam và chính thức chấm dứt cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, Việt Minh và chính phủ Việt Nam Cộng hòa không thể đạt được thỏa thuận về việc thực hiện bầu cử tự do và độc lập tại cả miền Bắc và miền Nam.

Các bên cũng không đồng ý về việc tái hợp nhất Việt Nam. Vì vậy, sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam vào năm 1956, miền Nam đã không tổ chức bầu cử để chọn ra chính phủ thống nhất. Thay vào đó, các cuộc đấu tranh vũ trang đã tiếp diễn và leo thang đến cuộc Chiến tranh Việt Nam.

Đối với miền Bắc, Việt Minh đã lập ra một chính phủ mới và chuyển đổi thành một nền kinh tế cộng sản. Trong khi đó, miền Nam tiếp tục duy trì chính phủ của Việt Nam Cộng hòa, một chính phủ dân chủ được hậu thuẫn bởi Hoa Kỳ.

Trước khi Việt Nam thống nhất lại vào năm 1975, Chiến tranh Việt Nam đã gây ra hàng triệu người chết và làm hỏng kinh tế của cả Việt Nam và Hoa Kỳ. Hiệp định Giơnevơ đã thể hiện rõ sự mâu thuẫn giữa các bên tham gia và đã không giải quyết được vấn đề gốc rễ của cuộc chiến tranh ở Đông Dương.

Các văn bản được ký kết tại Hội nghị

  • Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia;
  • Một bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị;
  • Hai bản tuyên bố riêng của Đoàn Mỹ và Đoàn Pháp ngày 21/7/1954;
  • Các công hàm trao đổi giữa Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Pháp Mendès France.

Những thỏa thuận đạt được tại Hội nghị

Thỏa thuận chung cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia:

  1. Công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn viện lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước.
  2.  Đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương.
  3. Pháp rút quân khỏi lãnh thổ ba nước. Quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Lào và Campuchia.
  4. Không có căn cứ nước ngoài và không liên minh quân sự với nước ngoài.
  5. Tổng tuyển cử ở mỗi nước.
  6. Không trả thù những người hợp tác với đối phương.
  7. Trao trả tù binh và người bị giam giữ.
  8. Thành lập Ủy ban liên hợp kiểm soát và giám sát quốc tế.

Thỏa thuận riêng với mỗi nước, trong đó, các Hiệp định liên quan đến Việt Nam

Gồm 4 nội dung chính:

  1. Những điều khoản về đình chỉ chiến sự và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển quân được hai bên thực hiện trong thời gian 300 ngày; chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề mồ mả quân nhân hai bên tham chiến.
  2. Những điều khoản về duy trì và củng cố hòa bình ở Việt Nam: Lập giới tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (Sông Bến Hải), vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời, không coi là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, cấm tăng viện nhân viên quân sự, bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam, cấm xây dựng căn cứ quân sự mới, cấm hai miền không được gia nhập liên minh quân sự nào, cấm sử dụng mỗi miền để phục vụ một chính sách quân sự nào.
  3. Những điều khoản chính trị: Vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, Hiệp thương hai miền vào tháng 7/1955, tổng tuyển cử tháng 7/1956, tự do chọn vùng sinh sống trong khi chờ đợi, không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử với những người đã hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh.
  4. Những điều khoản quy định việc tổ chức thi hành Hiệp định: Ủy ban kiểm soát liên hợp, Ủy ban giám sát quốc tế trung lập.

Công ước Geneva về Đông Dương là một công cụ pháp lý quốc tế công nhận các quyền cơ bản của người dân Đông Dương và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc của các cường quốc và các quốc gia tham gia.

Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược thực dân của Pháp, buộc thực dân Pháp phải rút hết quân về nước, lập lại hòa bình cho khu vực Đông Dương, thành lập Đế quốc Mỹ. của các cuộc chiến ý thức hệ.Aggression in Indochina. Với hiệp định này, miền Bắc nước ta hoàn toàn được giải phóng, chuyển sang xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc trở thành chi viện đắc lực cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.

– Với việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã kết hợp đấu tranh quân sự với chính trị và ngoại giao. Ông để lại nhiều bài học cho các cuộc đấu tranh ngoại giao sau này. Hiệp định đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta nhưng chưa hoàn thành do miền bắc vừa được giải phóng. Đấu tranh cách mạng phải tiếp tục giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Từ năm 1974, Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và sau đó là nhiều đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ngày 1/5/2014, Trung Quốc cho phép giàn khoan HD-981 và tàu tuần tra hoạt động hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Giàn khoan và tàu trú bão của Trung Quốc đã vi phạm rất nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các quốc gia ở Biển Đông (DOC) năm 2002. Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử xác thực khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Biển Baltic.

Bài học ứng dụng:

  1. Tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, tập hợp sức mạnh toàn dân, chia cắt và cô lập địch, tiến lên và đánh thắng địch. 
  2. Giành được sự ủng hộ của dư luận quốc tế thông qua đấu tranh ngoại giao ngoan cường.
  3. Trên cơ sở Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các quốc gia bên biển Baltic (DOC) năm 2002, Việt Nam đoàn kết với các quốc gia Đông Nam Á và quốc tế, đấu tranh trên tinh thần đồng thuận và nhất trí cao. Thể hiện sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự chân thành của nhân dân ta, đồng thời vạch trần hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam của Trung Quốc, qua đó cô lập và làm thất vọng hành động của họ.

Hiệp định Giơnevơ không thể giải quyết tất cả các vấn đề và cuối cùng không thể ngăn chặn sự xung đột tiếp diễn ở Việt Nam. Tuy nhiên, nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc kết thúc chiến tranh Đông Dương và mở đường cho các cuộc đàm phán hòa bình tiếp theo.

Đây là một trong những kiến thức quan trọng trong môn Lịch sử. Vậy nên các em cần phải ghi nhớ. Đặc biệt, những bạn chuyên khối C thì càng cần phải để ý. 

 

Bài viết liên quan
new
1 phút nắm trọn cách sử dụng câu với "Now"

Trong thế giới của các trạng từ chỉ thời gian, từ “now” chắc chắn là một trong những từ đầu tiên chúng ta tiếp xúc và nhớ mãi. Nhưng liệu khi nào chúng ta nên sử dụng từ này và nó đại diện cho thì nào? Hãy cùng FQA.vn khám phá ngay về “now” và cách sử dụng nó một cách chính xác và linh hoạt nhất trong các câu. Điều này không chỉ giúp bạn hiểu rõ hơn về ngữ cảnh sử dụng của từ “now”, mà còn giúp nâng cao khả năng diễn đạt của bạn trong giao tiếp tiếng Anh!

Admin FQA

25/04/2024

new
Top 4 web tra phiên âm tiếng Anh miễn phí và chính xác nhất

Đã bao giờ bạn đã cảm thấy tự ti khi phát âm sai một từ và không được ai sửa chữa? Hay khi những từ cùng chữ vẫn lại được phát âm khác nhau, liệu có khiến bạn bối rối không? Nếu câu trả lời là có, thì bạn không phải một mình. Đây là thời điểm tuyệt vời để khám phá thế giới của các từ điển trực tuyến, giúp bạn tiến gần hơn đến mục tiêu hoàn hảo hóa phát âm tiếng Anh của mình! Dưới đây là bốn nguồn tài nguyên trực tuyến được FQA.vn đánh giá cao, mang lại cho bạn những tính năng độc đáo và hữu ích trong quá trình học tập.

Admin FQA

25/04/2024

new
Những điều cần biết về kì thi IOE

Tìm hiểu về cuộc thi IOE tiếng Anh với FQA.vn! Đăng ký tài khoản và khám phá tri thức, cơ hội thể hiện bản thân và phát triển kỹ năng tiếng Anh. Đừng bỏ lỡ! Hãy khám phá chi tiết về cuộc thi IOE tiếng Anh, nơi mà các bạn học sinh sẽ được đắm chìm trong các vòng thi hấp dẫn. FQA.vn sẽ giúp bạn hiểu hết về quy trình đăng ký tài khoản, mở ra cánh cửa khám phá tri thức đầy màu sắc và hứng thú. IOE sẽ mang đến cơ hội cho các bạn học sinh thể hiện bản thân và phát triển kỹ năng tiếng Anh của mình.

Admin FQA

25/04/2024

new
Tất tần tật về Câu hỏi đuôi: Định nghĩa, cách sử dụng và ví dụ

Bạn đã biết câu hỏi đuôi là gì chưa? Đừng lo lắng về vấn đề này nữa! FQA.vn sẽ chỉ cho bạn tất cả những gì bạn cần biết về câu hỏi đuôi trong tiếng Anh. Bạn có biết câu hỏi đuôi là gì không? Chúng là những câu hỏi thêm vào cuối câu để xác nhận hoặc nhấn mạnh điều gì đó. Vấn đề này khiến nhiều người cảm thấy bối rối vì có nhiều cách sử dụng khác nhau. Nhưng đừng lo, trang web FQA.vn có bài viết chi tiết về chủ đề này. Họ sẽ giải thích rõ ràng về cấu trúc và cách sử dụng của câu hỏi đuôi trong tiếng Anh. Hãy cùng đọc và thử thực hành để hiểu rõ hơn nhé!

Admin FQA

25/04/2024

new
Câu cầu khiến trong tiếng Anh: Định nghĩa, phân loại, cách sử dụng và ví dụ

Muốn hiểu sâu về cấu trúc câu cầu khiến tiếng Anh? FQA.vn đã sẵn sàng giải thích chi tiết, giúp bạn tự tin hơn khi sử dụng ngôn ngữ này. Khám phá ngay! Hiện nay, việc hiểu về cấu trúc câu cầu khiến trong tiếng Anh là rất quan trọng. Tuy nhiên, cấu trúc này có nhiều dạng khác nhau, gây khó khăn cho người học. Trong bài viết này, FQA.vn sẽ giải thích một cách chi tiết nhất về cách sử dụng câu cầu khiến trong tiếng Anh. Bằng cách này, bạn sẽ có thêm kiến thức và tự tin hơn khi sử dụng tiếng Anh. Hãy cùng tham khảo để nắm vững chủ đề này!

Admin FQA

25/04/2024

new
Những điều cần phải biết về cấu trúc Not only But also

"Not only but also" là một cấu trúc ngữ pháp tiếng Anh đầy mê hoặc, tồn tại với sự phổ biến không hề nhỏ, đặc biệt là trong các bài thi học thuật. Đây không chỉ là một chủ đề ngữ pháp phức tạp mà còn là điểm nhấn thú vị đối với những ai muốn vươn xa hơn trong việc hiểu sâu về ngôn ngữ. Hãy cùng FQA khám phá cách sử dụng và ý nghĩa chi tiết của cấu trúc "Not only but also" trong bài viết dưới đây.

Admin FQA

25/04/2024

Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản miễn phí!

Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn

LIÊN KẾT

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)

Copyright © 2024 fqa.vn All Rights Reserved