27/10/2023
27/10/2023
25/08/2025
Giá trị nội dung
Truyện ngắn "Một đám cưới" xoay quanh bi kịch của nhân vật ông giáo Thứ. Tác phẩm đã phơi bày một cách trần trụi và đau xót sự sa ngã, lụi tàn của một tâm hồn trí thức trong xã hội kim tiền.
Phơi bày bi kịch của người trí thức tiểu tư sản: Ông Thứ là hình ảnh tiêu biểu cho lớp người trí thức tài năng, có hoài bão nhưng lại bị hoàn cảnh sống bần cùng, đói nghèo bóp nghẹt. Ông muốn theo đuổi những lý tưởng cao đẹp nhưng lại phải bó gối trong vòng xoáy cơm áo gạo tiền. Bi kịch của ông không chỉ là sự thiếu thốn vật chất mà còn là sự tha hóa về tinh thần: ông buộc phải từ bỏ những nguyên tắc, những cái "tôi" trong sạch của mình để tồn tại. Đỉnh điểm là trong đám cưới của con, ông phải nói dối, phải nở nụ cười giả tạo để che đậy sự nghèo túng, tủi hổ.
Giá trị hiện thực sâu sắc: Nam Cao đã tái hiện chân thực bức tranh xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, nơi những giá trị đạo đức bị đảo lộn, những con người lương thiện bị đẩy vào ngõ cụt. Tác phẩm đã vạch trần bộ mặt thối nát của tầng lớp thượng lưu, sự vô cảm của xã hội và sự bế tắc của những người dân nghèo.
Giá trị nhân đạo cao cả: Tuy nhiên, truyện ngắn không chỉ dừng lại ở sự phê phán. Nó còn thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Ông đã nhìn thấu và đồng cảm với nỗi khổ đau của ông Thứ, của những người trí thức bị tha hóa. Nhà văn đã thể hiện sự trân trọng với những phẩm chất tốt đẹp còn sót lại trong họ và lên tiếng bênh vực cho những số phận bất hạnh.
Giá trị nghệ thuật đặc sắc
Tài năng của Nam Cao đã được bộc lộ rõ nét qua cách xây dựng nhân vật và lối viết độc đáo.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật tâm lí: Nam Cao được mệnh danh là bậc thầy trong việc phân tích tâm lí nhân vật. Tác giả đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp của ông Thứ, từ sự giằng xé giữa lòng tự trọng và sự nhục nhã, đến nỗi ám ảnh về cái nghèo và sự bất lực. Những độc thoại nội tâm, những dòng suy nghĩ miên man đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về bi kịch tinh thần của nhân vật.
Nghệ thuật trần thuật độc đáo: Nam Cao sử dụng lối trần thuật linh hoạt, đan xen giữa hiện tại và quá khứ, giữa lời kể của người kể chuyện và những dòng độc thoại nội tâm của nhân vật. Điều này tạo nên sự đa chiều, phức tạp cho câu chuyện. Ngôi kể thứ ba giúp nhà văn có cái nhìn khách quan, nhưng việc đi sâu vào nội tâm lại mang đến sự đồng cảm sâu sắc.
Ngôn ngữ trần trụi, chân thực: Ngôn ngữ của Nam Cao giản dị nhưng đầy ám ảnh, có sức lay động mạnh mẽ. Tác giả không dùng những lời hoa mĩ mà trực tiếp miêu tả những chi tiết nhỏ, những hành động vụng về, những suy nghĩ tủi nhục để lột tả bi kịch của nhân vật.
07/10/2024
Khánh Duy Tạ Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông lột tả chân thực cuộc sống nghiệt ngã thời bấy giờ. Và “Một đám cưới” là một truyện ngắn cho người đọc thấy sự bi đát về xã hội lúc bấy giờ.
Trong truyện ngắn “Một đám cưới” của Nam Cao, đám cưới trở thành phông nền để nhà văn lột tả hiện thực bi thảm của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945) và sự “thui chột” những phẩm chất tốt đẹp của con người vì hoàn cảnh khốn cùng.
Nam Cao – bậc thầy về truyện ngắn, nhà văn của người nông dân nghèo tuy đôi khi ngòi bút sắc lạnh nhưng tấm lòng nhân đạo luôn là điểm sáng ngời trong con người của ông. Viết về nạn đói, Nam Cao đã chạm bút đến những thân phận đáng thương trong xã hội: những đứa trẻ, bà lão đói rách tả tơi. Cuộc đời họ chẳng khác gì cuộc đời của một con vật, bị hắt hủi, đói quá mà nhân phẩm, danh dự của con người bị thui chột hẳn đi. “Một đám cưới” kể về gia đình Dần, một gia đình “vườn ít, ruộng không, cửi vải cũng không”. Gia cảnh nghèo nàn buộc Dần phải đi ở đợ cho người ta từ khi Dần còn rất nhỏ. Người mẹ vì để bớt đi một miệng ăn trong cảnh gạo châu củi quế nên đành cho con đi ở đợ nhà người. Tại đây, Dần bị bắt lao động cực nhọc, cơm thì chẳng đủ để ăn, còn lời mắng nhiếc thì dư thừa. Nam Cao hạ bút viết: “Cơm nhà giàu khó nuốt. Ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa ra mà giả họ. Dần chân yếu tay mềm lắm”. Không chịu nổi cảnh khổ cực đó, Dần về nhà mẹ. Nhưng đau đớn thay, người mẹ không chứa chấp Dần: “mày muốn sống, thì về nhà bà chánh mà ở, không về thì đi đâu mặc kệ! Tao không chứa, tao không lấy gì nuôi được mày”.
Một người mẹ từng rất thương con bấy giờ lạnh lùng, vô cảm, từ bỏ đứa con của mình. Rõ ràng cái đói đã làm đổi thay bản chất của một con người. Dần đành cắn răng chịu đựng kiếp cảnh nô đày: “Lâu lâu dần rồi nó cũng quen đi. Cái sự khổ thì bao giờ cũng thế thôi”, Dần đã “quen khổ”, chấp nhận làm thân trâu ngựa cho người nhà giàu. Hoàn cảnh túng cùng buộc người bố dằn lòng bấm bụng gả con đi. Gả Dần là để bớt miệng ăn trong nhà chứ cứ bám vào nhau thì lấy gì mà sống. Mặc cho Dần van xin: “hai em thì còn dại, chỉ có con hơi lớn một tí phải ở nhà để thổi cơm, nấu nước”, bố Dần nhất quyết gả con đi. Không phải ông không thương con nhưng cảnh nghèo túng, lam lũ khiến ông khổ quá rồi, lòng lạnh quá rồi, thời buổi này người ta chỉ còn biết sống, còn sống như thế nào, nhân hậu hay vô cảm thì người ta không màng đến nữa.
Cảnh đám cưới Dần trong thật thê thảm chẳng khác nào cái đám ma: “Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái nhà trai”, văng vẳng tiếng khóc của Dần, của mấy đứa em. Cô dâu mặc cái quần “cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to”, cái áo “bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách”. Đúng là thảm cảnh! Dường như những con người này ít nhiều đã mất đi nhân tính, người mẹ khổ quá nên lạnh lùng chối bỏ đứa con gái, người bố vì để bớt đi một miệng ăn trong nhà nên vội vã gả con đi. Đám cưới diễn ra trong không gian tiêu điều, ảm đạm, Dần lê từng bước trên con đường quê về nhà chồng nhưng chính Dần cũng không biết tương lai như thế nào, hạnh phúc có mỉm cười với chị hay không, hay Dần lại tiếp tục sống trong cảnh đọa đày, khổ hơn là chết. Ẩn đằng sau câu chữ là tiếng kêu đau khắc khoải của “kiếp lầm than”.
Với lối kể truyện độc đáo cùng ngôn từ bình dị, gần gũi. Người đọc có thể thấy được hoàn cảnh éo le, đau khổ của cô Dần hay chính là những người nông dân trước Cách mạng thánh tám năm 1945.
28/10/2023
Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông lột tả chân thực cuộc sống nghiệt ngã thời bấy giờ. Và “Một đám cưới” là một truyện ngắn cho người đọc thấy sự bi đát về xã hội lúc bấy giờ.
Trong truyện ngắn “Một đám cưới” của Nam Cao, đám cưới trở thành phông nền để nhà văn lột tả hiện thực bi thảm của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945) và sự “thui chột” những phẩm chất tốt đẹp của con người vì hoàn cảnh khốn cùng.
Nam Cao – bậc thầy về truyện ngắn, nhà văn của người nông dân nghèo tuy đôi khi ngòi bút sắc lạnh nhưng tấm lòng nhân đạo luôn là điểm sáng ngời trong con người của ông. Viết về nạn đói, Nam Cao đã chạm bút đến những thân phận đáng thương trong xã hội: những đứa trẻ, bà lão đói rách tả tơi. Cuộc đời họ chẳng khác gì cuộc đời của một con vật, bị hắt hủi, đói quá mà nhân phẩm, danh dự của con người bị thui chột hẳn đi. “Một đám cưới” kể về gia đình Dần, một gia đình “vườn ít, ruộng không, cửi vải cũng không”. Gia cảnh nghèo nàn buộc Dần phải đi ở đợ cho người ta từ khi Dần còn rất nhỏ. Người mẹ vì để bớt đi một miệng ăn trong cảnh gạo châu củi quế nên đành cho con đi ở đợ nhà người. Tại đây, Dần bị bắt lao động cực nhọc, cơm thì chẳng đủ để ăn, còn lời mắng nhiếc thì dư thừa. Nam Cao hạ bút viết: “Cơm nhà giàu khó nuốt. Ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa ra mà giả họ. Dần chân yếu tay mềm lắm”. Không chịu nổi cảnh khổ cực đó, Dần về nhà mẹ. Nhưng đau đớn thay, người mẹ không chứa chấp Dần: “mày muốn sống, thì về nhà bà chánh mà ở, không về thì đi đâu mặc kệ! Tao không chứa, tao không lấy gì nuôi được mày”.
Một người mẹ từng rất thương con bấy giờ lạnh lùng, vô cảm, từ bỏ đứa con của mình. Rõ ràng cái đói đã làm đổi thay bản chất của một con người. Dần đành cắn răng chịu đựng kiếp cảnh nô đày: “Lâu lâu dần rồi nó cũng quen đi. Cái sự khổ thì bao giờ cũng thế thôi”, Dần đã “quen khổ”, chấp nhận làm thân trâu ngựa cho người nhà giàu. Hoàn cảnh túng cùng buộc người bố dằn lòng bấm bụng gả con đi. Gả Dần là để bớt miệng ăn trong nhà chứ cứ bám vào nhau thì lấy gì mà sống. Mặc cho Dần van xin: “hai em thì còn dại, chỉ có con hơi lớn một tí phải ở nhà để thổi cơm, nấu nước”, bố Dần nhất quyết gả con đi. Không phải ông không thương con nhưng cảnh nghèo túng, lam lũ khiến ông khổ quá rồi, lòng lạnh quá rồi, thời buổi này người ta chỉ còn biết sống, còn sống như thế nào, nhân hậu hay vô cảm thì người ta không màng đến nữa.
Cảnh đám cưới Dần trong thật thê thảm chẳng khác nào cái đám ma: “Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái nhà trai”, văng vẳng tiếng khóc của Dần, của mấy đứa em. Cô dâu mặc cái quần “cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to”, cái áo “bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách”. Đúng là thảm cảnh! Dường như những con người này ít nhiều đã mất đi nhân tính, người mẹ khổ quá nên lạnh lùng chối bỏ đứa con gái, người bố vì để bớt đi một miệng ăn trong nhà nên vội vã gả con đi. Đám cưới diễn ra trong không gian tiêu điều, ảm đạm, Dần lê từng bước trên con đường quê về nhà chồng nhưng chính Dần cũng không biết tương lai như thế nào, hạnh phúc có mỉm cười với chị hay không, hay Dần lại tiếp tục sống trong cảnh đọa đày, khổ hơn là chết. Ẩn đằng sau câu chữ là tiếng kêu đau khắc khoải của “kiếp lầm than”.
Với lối kể truyện độc đáo cùng ngôn từ bình dị, gần gũi. Người đọc có thể thấy được hoàn cảnh éo le, đau khổ của cô Dần hay chính là những người nông dân trước Cách mạng thánh tám năm 1945.
Chiến Thần
18/08/2024
Hay đó
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
29/08/2025
28/08/2025
Top thành viên trả lời