Phân tích bài thơ Cảnh chiều hôm của Hồ Chí Minh.

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của dangkien008
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

18/03/2023

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Có thể nói, mỗi bài thơ trong tập Ngục trung nhật ký đều là một phát hiện, một cảm nhận hết sức độc đáo của người tù, người nghệ sĩ - chiến sĩ Hồ Chí Minh trước hiện thực khách quan. Một nụ hoa bừng nở, một bông hoa lụi tàn, với chúng ta, đôi khi chẳng gợi lên được điều gì. Thế nhưng chuyện hoa nở, hoa tàn ấy đã khơi dậy trong tâm tư của người tù Hổ Chí Minh bao điều suy nghĩ trăn trở sâu xa. Bài thơ Vân cảnh (Cảnh chiều hôm) của Bác ra đời trong ngục tối nhưng lại bừng sáng lên trong lòng người đọc bao điều về lẽ sống, về chân lý, về tình đời.
Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng
Hoa tàn hoa nở cũng vô tình;
Hương hoa bay thấu vào trong ngục, Kề với tù nhân nỗi bất bình.
<t<br>Đọc qua bài thơ tưởng như đây là một bài thơ tả cảnh ngụ tình với lối ẩn dụ quen thuộc của thơ ca phương Đông, với sắc hoa và hương hoa muôn thuở. Nhừng xem kỹ, người đọc sẽ nhận ra từ bài thơ thơm ngát một hương sắc lạ, lấp lánh một vẻ đẹp riêng - vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh. Thơ ca truyền thống Đông phương viết nhiều về trăng, hoa, tuyết, nguyệt, sơn hà: nào là những tùng, trúc, cúc. mai; nào những Tiêu tương, Tầm Dương, Cô Tô, xích Bích... Những bài thơ ấy đều là sản phẩm của những bậc "tao nhân mặc khách” bị những thi sĩ với "bầu rượu túi thơ", du ngoạn nơi "sơn thuỷ hữu tình":
Ngủ Nhạc tìm tiên ta chẳng ngại
Một đời chỉ thích núi non chơi
(Lý Bạch)
Cũng đã nhiều người từng yêu hoa và cảm thông trước số phận của những cánh hoa rơi. Từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim, từng có biết bao văn nhân thi sĩ than khóc cho những kiếp hoa sớm nở tối tàn. Trong bài Khúc giang nhà thơ Đỗ Phủ viết:
"Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân
• Phong phiêu vạn điềm chinh sau nhân
(Một cánh hoa bay làm giảm sức xuân - Gió thổi vạn cánh hoa chính là nổi sầu não của người). Nhà thơ Thôi Hộ cũng đã từng than: "Thuỷ lưu hoa tạ lưỡng vô tĩnh" (nước chảy, hoa tàn cả hai đều vô tình)... Sau này Xuân Diệu có lần cũng thốt lên: "ờ nhi ĩ Sao hoa lại phải rơi" (ỷ thu)... Nhưng không biết trong những "thiên gia thỉ" ấy, có ai đã từng viết về hoa từ trong tù ngục, từ trong bao gian khổ, khó khăn tai ương chồng chất như tình cảnh của tác giả bài Vãn cảnh này? Phải đặt bài thơ trong hoàn cảnh ra đời, hoàn cảnh "Viết, dưới giá treo cổ" như J.Phuxích đã nói, mới thấy hết được giá trị của bài thơ. Sống trong cảnh ngục tù đầy nghiệt ngã khó khăn: "bốn tháng cơm không no", "đêm thiếu ngủ" "áo không thay" "không giặt .giũ” khiến "gầy đen như quỷ đói - ghẻ lở mọc đầy thân", thế mà Người vẫn không quên một cánh hoa mong manh lúc nở, lúc tàn ngoài cửa ngục. Nhan để của bài thơ gà Cảnh chiều hôm nhưng yếu tố không gian và thời gian "chiều hôm" "chiểu
tà" ở đây không phải là điều Bác quan tâm.
Mới đọc câu mở đầu: "Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ”, ta đã nghe trong đó bao nhiêu thương cảm, xót xa. Cấu thơ dịch: "Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng" đã chuyển dẫn được ý thơ: hoa nở rồi hoa lại tàn, nhưng vẫn chưa thoát hết được cái ý tại ngôn ngoại” của câu thơ. Mai là tên một loài hoa, khôi là đứng đầu. Mai Khôi là loài mai đứng đầu muôn loài hoa. Phải chăng thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến cho bạn đọc ấy là: dù cho đó là loài hoa đẹp nhất, tuyệt vời nhất, chúa tể của : mọi loài hoa cũng không tránh được quy luật của tạo hoá: có nở, có tàn ”hữu khai, hữu tạ”, ”Hữu sinh, hữu diệt”. Mọi vật sinh ra ở đời đểu có kết cục của nó. cái đẹp cũng vậy. Dường như có một nỗi xót xa thấm đẫm mấy chữ "hoa khai hoa hựu tạ" ta nghe trong đó có lời kệ của Vạn Hạnh thiền sư: "Thân như điện ảnh hữu hoàn vô” (đời người như ánh chớp có rồi không), lại như nghe có tiếng thở dài của Nguyễn Trãi: "Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi”. Đó quả là một quy luật nghiệt ngã, lạnh lùng. Câu thơ nêu một quy luật của tạo hoá tưởng như khách quan nhưng đọc lên vẫn thấy nặng trĩu tỉnh người, do chữ ”hựu” (lại). Hoa nở (rổi), hoa lại tàn, nghe có gì đó thật xót xa chờ một đời hoa đẹp mà sao ngắn ngủi "sớm nở tối tàn". Nếu như câu thứ nhất là một nhận xét tưởng như lạnh lùng khách quan nhưng trĩu nặng tình người, thì câu thơ thứ hai lại mở. ra một tầm triết lý cao hơn: "Hoa khai, hoa tạ lưỡng vô tình” (hoa nở hoa tàn, cả hai đều vô tình). Có rất nhiều cách hiểu được gợi ra từ việc xác định chủ thể của sự ”vô tình” trong câu thứ. hai này. Ai vô tình? Có người cho là chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch vô tình trước việc hoa nở hoa tàn. Người khác lại cho rằng chính Bác "vô tình". Hiểu Bác vô
381
tình sẽ thấy câu thơ như một nỗi niềm băn khoăn, một lời trách chính mình làm sao lại có thể vô tình trước việc hoa nở, hoa tàn thế được. Một con người khi đã tự biết trách. chính mình, biết dằn vặt băn khoăn và tự kiểm điểm minh về việc vô tình với hoa, cũng là vô tình với cái đẹp, thì đấy chính là con người có tấm lòng cao cả, có tâm hồn giàu yêu thương, giàu lòng nhân ái, biết quý trọng và nâng niu cái đẹp... Cái "vô tình" ở đây bỗng trở thành cái rất "hữu tình". Nhà thơ Xuân Diệu lại cho rằng, vô tình ở đây là trời đất, là tạo hoá vô tình. Ông viết: "đâu chỉ có thiên ha vô tình, mà hơn nữa kia, tạo hoá vô tình (...) các lớp hoa hồng nở rụng, rụng nờ, tạo hoá vẫn. cứ vỡ tình, chỉ có tạo hoá vô tinh" (Đọc lại thơ Nhật kỳ trong tù - Văn nghệ 21. Ngày 12-5-1984). Tán thành với cách hiểu của Xuân Diệu, có nhà phê bình khẳng định: "Như vậy là bài thơ đề cập .đến số phận mong manh của cái đẹp ở đời. Một đề tài vĩnh cửu của thi ca nhân loại. Nội dung tác phẩm là nỗi bất bình của thi sĩ, của hương hoa và tất nhiên cũng là của các nhà thơ mà những tâm hồn ít thiết tha cái đẹp không thể nào hiểu được. Vi thế hương hoa đã bay vào trong ngục để tỏ nỗi bất bình với một người chẳng những có thể hiểu được tâm trạng của mình mà còn có khả năng giải tỏa được nỗi bất bình ẩy nữa: đó là nghệ sĩ Hồ Chí Minh, thi sĩ HỒ Chí Minh. Qua hình tượng thơ, tác giả muốn nói với •
người đọc một sự thật đau lòng là tình trạng đoản mệnh của bảo cái đẹp trên đời..." (Từ Nhật ký trong tù, di tim tư tưởng thẩm mĩ của Hồ Chí Minh - dẫn từ ấy nghĩ mới về Nhật ký '
trong tù, GD, 1993, tr. 131). Thiết nghĩ, cái hay của câu thơ I
chính là chỗ no' đã gợi ra rất nhiều ý tưởng, tạo nên một vẻ í
đẹp đa âm, đa nghĩa, lấp lánh nhiều màu sắc lung linh... Hai Ị
câu thơ cuối khép lại bài thơ bằng một cuộc gặp gỡ để sẻ chia, Ị
382 ■ Ị
thông cảm:
Hương hoa thấu nhập lung môn lý
Hướng tại lung nhân tố bát bĩnh.
Hai câu thơ dịch cớ sát nghĩa: "'Hương hoa bay thấu vào trong ngục ~ Kề với từ nhân nỗi bất bình", nhưng rõ ràng là đã làm mất đi phần nào sức lan tỏa rất mãnh liệt và chủ động của hương hoa. Người đọc nguyên tác, có thể cảm nhận được cường độ, nồng độ và hướng nhằm tới của hương hoa qua các từ "thâu, nhập, hướng". Nó mạnh mẽ thẩm thấu qua tường ngục, tràn ngập không gian ngục thất và hường thằng tới "háng nhân" để "tô bát bình". Không phải là để "kể" mà là "tố" là vạch tội, là nói lên "nỗi bất bình". Co' một cuộc tương phùng, hội ngộ giữa hồn hoa và hồn thơ. Hoa đến với người đề cậy nhờ nương tựa; người sẻ chia và giúp hoa thổ lộ những nỗi niềm mà hồn hoa không nói nên lời. Đẹp biết bao là hình ảnh cuộc gặp gỡ của những cái đẹp giữa bốn bức tường lạnh ngắt của chốn ngục tù.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết về Bác:
Nếu sinh ra không có lũ côn đồ
Chắc Người đã yên lòng viết sử làm thơ.
Nhưng thực ra cái vĩ đại của Hồ Chí Minh lại là ở chỗ dù bị giam cầm và sống ngay giữa vòng vây của "lũ côn đồ", Người đã làm thơ và vẫn làm thơ. Từ bóng tối của ngục tù, hồn thơ ấy vẫn toả sáng và sưởi ấm cho bao kiếp người, cảm thông và sẻ chia với bao số phận trên đời, dù đó chỉ là một cánh hoa. Qua một bông hoa lúc nở, lúc tàn mà gợi lên trong lòng người đọc bao nỗi niềm về lẽ sống, vẽ tình yêu với cái đẹp trên trời.
BÀI VĂN THAM KHẢO số 2
BÀI LÀM
Phiên rằm:
Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ, .
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tĩnh;
Hoa hương thấu nhập lung môn lý, ỉ
Hướng tại lung nhân tố bất bình.
Dịch thơ:
Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng, .
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình;
Hương hoa bay thau vao trong ngục,
Kể với tù nhân nỗi bất bình.
Bài thơ với bốn câu thơ giản dị nhưng không thật dễ hiểu. Đến ngày thi sĩ Xuân Diệu ” người cảm thụ thơ tinh tế, tài hoa như vậy cũng phải mất nhiều năm mới hiểu, mới nhận rõ ý nghĩa đích thực của bài thơ. Có những người đã hiểu bài thơ theo ý nghĩa phê phán chế độ xã hội dưới chính quyền Quốc dân Đảng Trung Quốc. Trong xã hội ấy không có chỗ cho cái đẹp. Nó vô tình đối với cái đẹp. Sự bất bình của bông hoa cũng là nỗi bất bình của tác giả đối với xã hội. Vì thế người đã ném sự bất bình đó vào xã hội đen tối của nước Trung Hoa dân ỉ
quốc. Số người hiểu theo cách này không phải lã ít. ị
Căn cứ vào câu chữ của bài thơ, ta có thể hiểu một cách '
khác. Câu thơ đầu: ị
"Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng" j
■■■■■/Ì
Bông hoa hồng nở rồi rụng theo quy luật của tự nhiên, theo lẽ thường. Câu thơ chưa có "vấn đề” gì. Rắc rối là ở câu . thứ hai. Nguyên văn chữ. Hán dịch là: ;”hoa tàn, hoa nở cũng vô tình” túy đá sát với nghĩa của nguyên tắc nhưng. vẫn dễ gây hiểu sai đi về chù ngữ của hai chữ "vô tình". Ai vô tình? Vô tình với cái gì? Như trên đã nói, có nhiều người hiểu là chế độ Quốc dân Đảng Trung Quốc vô tình với cái đẹp.
Nhưng chữ nghĩa trong nguyên tắc không phải là như vậy. Câu thứ hai có thể dịch rõ nghĩa ra như thế này: "Hoa nở, hoa tàn (hai "sự" đó) đều vô tình. Nghĩa là sự tàn nở của hoa cứ diễn ra một cách dửng dưng "vô tình" như thế đấy thôi. Đây là sự vô tình của tự nhiên, của tạo hoá. Năm 1966, trong bài viết "Yêu thơ Bác" Xuân Diệu thú nhận là chưa hiểu rõ nghĩa của bài thơ này: ”Có những câu có thể coi là quá giản dị nhưng tại sao tôi đọc đi đọc lại vẫn thấy một cái gì trong đó mà mình rút chưa hết, ví dụ như bài Cảnh chiều tối hoa hồng bên ngoài nỗ rồi rụng". Ngót hai chục năm sau, trong một bài viết cuối đời mình (đọc lại thơ Nhật ký trong từ -~ 1984), ông mới nhận ra ý nghĩa đích thực của bài thơ: ."theo cháu nghĩ, đầu có phải chỉ là thiên hạ vô tình, mà hơn .nữa kia, tạo hoá vô tình (...) các lớp hoa hồng nở rụng, rụng nở,. tạo hoá vẫn cứ vô tình, chỉ có tạo hoa vô tình".
Cố hiểu đúng câu thứ hai mới có thể hiểu đúng được câu thứ ba thứ tư:
Hương hoa, bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình.
Đây là sự bất bình của hoa đối với thái độ dửng dưng vô tình của tạo hoá, nó tìm vào trong ngục để tỏ bày tâm sự ấy với Hồ Chí Minh - nhã thơ. Bởi vì nhà thơ tha thiết hơn ai
hết vối cái đẹp, mới thông cảm sâu sắc với nỗi bất bình kia.
Bài thơ thực ra không có gì khổ hiểu nếu đặt số trong truyền thống thơ ca nhân loại từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim. Biết bao nhiêu thi sĩ đã viết nên những vần thơ đây thương xót đối với những bông hoa sớm nở tối tàn...
Nhà thơ Pháp Rông Xa từng bất bình với tạo hoá mà ông gọi là ”bà dì ghẻ cay nghiệt*1 đối với kiếp hoa chỉ sống được từ sáng đến chiều hôm.
Trong bài Khúc giang, Đỗ Phủ viết:
Nhất phiến, hoa phỉ giám, khước xuân.
(Một cánh hoa rơi là đã kém, vè xuân ròi).
Xuân Diệu cũng than thở:
Ờ nhỉ! Sao hoa lại phải rơi?
■/ Ớ Thu)
Chủ đề của Cảnh chiều hôm, cũng nằm trong truyền thống đó, vì Hồ Chí Minh thật .sự là một thi sĩ yêu tha thiết cái đẹp.
Nhưng Hồ Chí Minh còn là nhà cách mạng vĩ đại, vì thế đã tạo nên sự vận động bất ngờ của bông hoa. Từ cảnh hoa tàn người phát hiện ra hương hoa vẫn sống và nó đòi quyền sống. Nó tìm đến Hồ Chí Minh, người có đủ chất nghệ sĩ để thông cảm với số phận của bông hoa và có đủ chất cách mạng để đổng tình với nỗi bất binh của hương hoa:
Hương, hoa .bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bĩnh,
Nhưng trước hết nó tìm đến Hồ Chí Minh thi sĩ - thi sĩ cách mạng “ vì chỉ có thi sĩ mối có khả năng giải quyết, được vấn. đề quyền .sống của cái đẹp, chống lại quy luật vô tình, vô

cảm của tạo hoá. Bởi vì thi sĩ, nghệ sĩ sinh ra ở đời gì, nếu không phải để phát hiện ra cái đẹp và để bất vĩnh viễn hoá cái đẹp, dù nó chỉ tồn tại trong một khắc trên cõi đời này.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
minhpham

18/03/2023

Theo thứ tự trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh “Cảnh chiều hôm” (Văn Cảnh) là một trong những bài thơ cuối tập, chỉ cách bài “Tân xuất ngục học đăng sơn” (Mới ra từ tập leo núi) chỉ có mười bài… Như vậy, lúc làm bài thơ này, nhà thơ bị giam cầm đã khá lâu, tâm trạng đã trải qua nhiều bức bối, phiền muộn. Tình hình thế giới và trong nước cũng đang có nhiều biến chuyển mau chóng, khiến cho chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy cảnh ngộ của mình trở nên không thể chịu đựng. Sau hơn nửa năm trời bị giam cầm và di chuyển “Quảng Tây giải khắp mười ba huyện, mười tám nhà giam đã ở qua”, cái khổ của cảnh lao tù có thể nói là đã tạm quen, nhưng nỗi khát khao được tự do, được hoạt động thì lại thêm cháy bỏng. Bài thơ này, và cả những bài thơ tiếp theo đều nói lên tâm trạng ấy:

Mai khôi hoa khai hoa hựa tạ,

Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình;

Hoa lương thấu nhập lưng môn lí,

Hướng tại lương nhân tố bất bình.

Dịch thơ:

Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,

Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình;

Hương hoa bay thấu vào trong ngục,

Kể với tù nhân nỗi bất bình.

Theo đầu đề, đây là một bài thơ tả cảnh (Văn cảnh – Cảnh chiều hôm), nhưng thật ra, bài thơ lại không tả cảnh mà chỉ nhân cảnh để nói lên tâm trạng, đo là nổi bất bình trước cảnh ngộ và niềm khao khát tự do của người tù.

Thường thì trong những hoàn cảnh như thế này, bất cứ thời khắc nào trong ngày cũng khiến người ta suy nghĩ để cay đắng về cảnh ngộ của mình. Tuy nhiên, trong những thời khắc ấy, thì cái thời khắc khi chiều đỗ xuống vẫn tác động đến tâm trạng người ta nhiều và mạnh hơn cả. Lí do một phần có lẽ do thứ ánh sáng nhàn nhạt của đất trời trước khi sập tối, cái hơi lành lạnh của buổi chiều về dễ khiến người ta nhận ra: thế là một ngàu nữa đã trôi đi mất. Càng nhận ra cuộc đời mình là quý giá, là cần thiết, thì cảm nhận về sự uổng phí của một ngày bị mất đi ấy càng thêm rõ ràng và cay đắng.

Cho nên, nói đến cảnh chiều hôm ở đây chỉ là cái cớ, cái thời khắc, hơn là nội dung của bài thơ.

Thực ra, xét riêng câu thơ đầu, nếu gọi đó là câu thơ tả cảnh cũng được:

Mai khôi hoa khai hoa hữu tạ…

(Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng)

Cảnh ấy là: Chiều đã xuống, hoa hồng đã rụng xuống. Coi đó là câu thơ tả cảnh thực, ta có thể hình dung ra bức tranh mà người tù đang nhìn thấy qua cửa sổ (hoặc khe hở nào đó) của phòng giam: trời đang sập tối, bóng tối càng xuống nhanh của một ngày đang độ mùa mưa, không gian cả trong và ngoài phòng giam đều âm u (ngay trước bài này là bài Thanh minh lất phất mưa phùn.. và sau đó là hai bài là bài Mưa lâu: Một ngày nắng hưởng, chín ngày mưa); trên mặt đất có mấy cây hồng ủ rũ với những bông hồng đang tàn pha…

Có thể trước mắt người tù thi sĩ và chiến sĩ này, đang diễn ra cảnh hoa hựu tạ (hoa lại rụng) ấy thật… Nhưng nếu thật như thế thì cảnh này cũng chỉ là nguyên cớ làm nảy sinh một cảnh trong tâm trạng, ấy là:

Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng…

Thấy hoa hồng rụng là nghĩ đến hoa nở, ấy là để cảm nhận một quá trình: thấm thoắt thời gian trôi qua, cái gì cũng có thể chuyển dời, cái gì cũng trôi mất, hết nở rồi tàn…

Trong câu thơ này, cần lưu ý từ hựu (nghĩa là lại, lại lần nữa). Việt nhìn thấy hoa hồng tàn ở đây không chỉ mới có trong buổi chiều hôm nay, cũng không phải chỉ có từ chiều hôm qua. Chính cái điều lại nở, lại tàn là gây ấn tượng mạnh cho nhà thơ lúc này.

Vì đó cũng là chỗ xuất phát cho cảm hững của bài thơ. Cũng vì thế mà, khác với nhiều bài thơ tả cảnh khác của Hồ Chính Minh, sang câu thơ thứ hai, tác giả không chỉ tả cảnh nữa mà là ngẫm nghĩ về cảnh.

Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình…

(Hoa tàn hoa nở cũng vô tình…)

Câu này có thể được hiểu theo mấy cách. Cách thứ nhất là: Hoa nở rồi hoa tàn, đó là chuyện tự nhiên, hoa nào có ý thức gì về việc tàn hay nở. Cách hiểu thứ hai có thể là: hoa nở rồi hoa tàn, hoa là vật vô tri, vô tình, hoa nào quan tâm gì đến ai, nào biết gì đến tâm trạng như ta. Lại có thể hiểu theo cách thứ ba: hoa nở rồi hoa tàn, đó là việc của hoa, việc của tự nhiên, ta đâu có quan tâm đến điều ấy.

Đọc hai câu thơ này, cứ tưởng là thở của vị ẩn sĩ nào thời xưa đã đến, lúc cuộc đời gác bỏ ngoài tai, mọi chuyện đời đều chỉ là chuyện nước chảy, mây trôi, hoa tàn, hoa nở. Nhưng thật là thú vị, tưởng là vô tình, nói là vô tình, mà lại hữu tình, rất hữu tình.

Hoa hương thấu nhập lung môn lí,

Hương tại lung nhân tố bất bình.

(Hương hoa bay thấu vào trong ngục

Kể với tù nhân nỗi bất bình)

Hoa tưởng vô tình nhưng lại đưa hương đến tận nhà giam, đến tận người tù để kể với người tù nỗi bất bình của mình. Người tưởng vô tình lại đón được hương hoa từ bên ngoài vào ngục, lại lắng nghe được tâm sự của hoa. Như vậy, giữa hoa và người đã diễn ra một sự cảm thông chứ không có gì là vô tình nữa, Hoa có thể vô tình, vô giác về sự bất công của xã hội, về cảnh ngộ của người tù nữa.

Còn lỗi bất bình? Nỗi bất bình của ai? Theo ý tứ câu thơ thì đó là nỗi bất bình của hoa, nỗi bất bình mà hoa, nhờ hương của mình làm tiếng nói mang đến kể với người tù. Nhưng nỗi bất bình nào? Có phải đó là nỗi bất bình về chuyện hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng? Nhưng đã nói rồi kia mà: Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình!

Thế thì, ở đây chỉ còn lại là nỗi bất bình của hoa về người tù, về cảnh ngộ của người tù. Phải chăng nỗi bất bình của hoa là thế này: tại sao, giữa hoa và người, có kẻ ở ngoài trời, có kẻ ở nhà giam? Và con người ở trong ngục kia, có tội gì mà phải bị giam cầm?

Hoa ra, đây cũng lại chính là nỗi bất bình của nhà thơ.

Cả bài thơ bốn câu, nhẹ nhàng, gần như vu vơ, chỉ để dồn vào hai tiếng cuối cùng bất bình. Đọc cả bài thơ, ấn tượng sau cùng, mạnh nhất, vẫn là hai tiếng: bất bình. Hẳn nhà thơ, khi viết bài thơ này, cũng chỉ là nói lên hai tiếng: bất bình. Đó là nỗi phẩn uất nhất, bức xúc nhất của nhà thơ lúc này, điều nhà thơ muốn kêu lên giữa nhà giam, muốn nói to lên giữa cuộc đời lúc này. Lời của bài thơi dịu, mà ý nghĩa của bài thơ rất mạnh là thế.

Từ dây, ta nhìn lại ý nghĩa của mấy từ này: tố bất bình (nói lên nỗi bất bình). Theo chữ nghĩa thì chủ ngữ của mấy tiếng này là hoa hương (hương của hoa nói lên nỗi bất bình).

Tuy nhiên, ở đây không chỉ là tiếng nói tố cáo của hoa hương mà chủ yếu, là tiếng nói của người tù. Người tù nói nên nỗi bất bình của mình. Ở đây, hương hoa chỉ là tác nhân làm bùng lên nỗi bất bình trong lòng người tù, khiến người phải thốt lên. Hay nói cách khác, hương hoa làm cho nỗi bất bình đã có sẵn trong lòng người từ phút chốc bùng lên, da diết, cháy bỏng hơn.

Trong bóng chiều hôm đang xuống, nhìn cảnh vật ngoài trời mà chỉ thấy hoa mai khôi, chỉ nhận ra hoa mai khôi đã tàn, ấy không phải chuyện ngẫu nhiên. Vì sao? Hẳn vì hoa hồng là loài hoa đẹp, tượng trung cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc.

Nhìn hoa hồng tàn mà liên tưởng đến hoa nở, hoa tàn, ấy cũng không phải ngẫu nhiên. Thời gian đang trôi qua ngày này qua ngày khác, phí uổng trong lao tù.

Nhìn hoa hồng mà nghĩ đến hương hoa hồng, ấy càng không phải là ngẫu nhiên. Thực tế thì có lẽ ngồi trong trại giam khó mà ngửi thấy hương hoa hồng từ ngoài bay vào. Nhưng đây thì là hương hoa bay thấu vào trong ngục. Noi thấu là để nhấn mạnh, xa xôi cách trở thế, nhà tù có thể ẩm thấp hôi hám thế, hương hoa vẫn cứ bay tới tận nơi. Có được cái thấu ấy là bởi vì không những hoa hồng vốn có hương thơm mà còn bởi lòng người sẵn mở ra để đón nhận hương thơm. Đến đây ta lại càng hiểu thêm tấm lòng của Bác đối với cuộc đời, hiểu thêm sự đồng cảm tri âm tri kỷ của tâm hồn nghệ sĩ Hồ Chí Minh với tất cả các sự vật thân thiết với con người. Một sự đồng cảm tuyệt vời!

Những đón nhận hương hoa rồi không chỉ để thưởng thức hương hoa, mà còn để nhận rõ thêm nỗi bất bình của mình. Vì sao? Vì hoa hồng là đẹp, là hạnh phúc, là tự do. Càng thấm thía hương thơm của hoa hồng, càng phẫn nộ trước cái xấu, cái ác đang có trong cuộc đời, càng nhận ra nỗi bất hạnh của mình. Bởi vậy, trong bao nhiêu điều mà hoa hồng có thể gợi lên cho mỗi người, nhà thơ đã bắt gặp điều tâm đắc nhất: khát vọng tự do.

“Cảnh chiều hôm” có cái đặc sắc của nó: câu từ lạ, bất ngờ, chủ đề thơ không hề được thông báo trước, đến cuối cùng mới xuất hiện, chỉ trong hai chữ, thế mà vẫn chặt chẽ, tự nhiên.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 1
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved