01/11/2023
* Xã hội nguyên thủy kéo dài hàng triệu năm, trải qua 2 giai đoạn là: bầy người nguyên thủy và công xã thị tộc.
* Đặc điểm:
- Thứ nhất, thị tộc và bộ lạc. Khoản 4 vạn năm trước, con người đã hình thành quá trình cải tiến của mình và bắt đầu loại hết dấu tích của vượn trở thành người tinh khôn. Người tinh khôn sống thành bầy đan gồm vài chục gia đình có quan hệ huyết thống với nhau, gồm từ 2-3 thế hệ sống chung, được gọi là thị tộc. Trong thị tộc, các con cháu luôn tỏ thái độ kính trọng ông bà và cha mẹ, trong khi đó, ông bà, cha mẹ chăm sóc và nuôi dạy tất cả con cái trong thị tộc.
- Trên vùng đất rộng lớn, với các điều kiện sống như sông, suối, hồ,... không chỉ có thị tộc mà còn có bộ lạc. Bộ lạc là tập hợp các thị tộc sống gần nhau, có họ hàng gần gũi và chung một tổ tiên xa xôi. Giữa các thị tộc, mọi người giúp đỡ lẫn nhau giải quyết khó khăn trong cuộc sống.
- Thứ hai, buổi đầu của thời đại kim khí. Việc phát hiện ra kim loại để làm công cụ lao động có tác dụng to lớn đối với xã hội nguyên thuỷ. Trước đây, họ chỉ biết sử dụng đá để làm công cụ lao động. Cho đến khoảng 4000 năm TCN, họ mới biết chế tạo công cụ lao động bằng đồng nguyên chất, đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong cuộc sống người tối cổ. Ban đầu, họ chế tạo ra đồng nguyên chất để làm đồ trang sức, sau đó, người ta biết trộn đồng với chì và thiếc để chế tạo ra công cụ lao động như: rìu, búa,...
- Công cụ kim khí ra đời thể hiện xã hội nguyên thuỷ đã có sự phát triển vượt bậc. Con người trong xã hội này có thể phá đất hoang, trồng trọt, tăng gia sản xuất. Từ đó, sản phẩm vật chất làm ra càng nhiều, của cải dư thừa dẫn đến xã hội có sự phân hoá giàu nghèo.
01/11/2023
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
19/10/2025
Top thành viên trả lời