10/11/2023

10/11/2023
10/11/2023
Bài thơ là một lời tự sự của một người chiến sĩ vừa là võ tướng vừa là thi nhân, vừa chiến đấu vừa làm thơ, vừa yêu thương vừa giết giặc. Nhà thơ đã thể hiện được sự đa diện và đa tài của mình, cũng như sự gắn bó với quê hương và dân tộc.Huỳnh Văn Nghệ nằm trong truyền thống này. Năm 1948, Huỳnh Văn Nghệ viết bài Dòng sông xanh như một tuyên ngôn thơ. Người chiến sĩ và nhà thơ ở Huỳnh Văn Nghệ là một, một người như mọi người, ở giữa mọi người.
Bờ sông xanh hôm nay buộc ngựa
Kiếm gối đầu theo gió thổi hồn cao
Thơ tôi đây cũng hoa bướm muôn màu
Lòng tôi đây, cũng vui sầu như bạn
Tôi cũng biết nhớ thương tơ tưởng
Nào chỉ là võ tướng hay thi nhân
Tôi là người lăn lóc trên đường trần
không phân biệt lúc mài gươm múa bút
Đời chiến sỹ máu hoà lệ mực
Còn yêu thương là chiến đấu không thôi
Cần nhận rõ một trong những đặc điểm của cá tính sáng tạo Huỳnh Văn Nghệ là phẩm chất nhà thơ và người chiến sĩ không tách biệt: Tôi là người lăn lóc trên đường trần / không phân biệt lúc mài gươm múa bút/ Đời chiến sỹ máu hoà lệ mực/ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi. Điều này giúp ta hiểu tại sao đối tượng, đề tài, cảm hứng và nội dung thơ Huỳnh Văn Nghệ tập trung vào đời sống chiến đấu ở chiến khu Đ thời kháng chiến chống Pháp. TS Huỳnh Văn Tới ghi nhận: “Tác phẩm của Huỳnh Văn Nghệ đã thể hiện rõ nét hiện thực kháng chiến gắn với lịch sử chiến khu Đ hào hùng. Qua những bài thơ nóng hổi hơi thở cuộc sống, người đọc bắt gặp những hình ảnh, nhân vật, sự kiện rất thật của đời thực”
Nhà thơ Đàm Chu Văn khẳng định: “chính ở Chiến khu Đ, chiến khu của miền Đông gian lao mà anh dũng, Huỳnh Văn Nghệ đã viết được những câu thơ, bài thơ đẹp nhất của đời mình…Ông là người đã viết nên pho lịch sử Chiến khu Đ độc đáo bằng Thơ". Nguyễn Nguyên Hùng cũng ghi nhận: “Huỳnh Văn Nghệ đánh giặc bằng cả gươm và bút. Đồng đội và nhân dân miền Nam gọi ông là “Thi tướng rừng xanh”. Làm thơ để đánh giặc, động viên những người ra trận, vì thế mà các bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ đều phản ánh hiện thực cuộc chiến đấu gian khổ, oanh liệt ở chiến khu. Một chiều tiêu thổ, một trận công đồn, một trận bão lụt, một chiến sĩ hy sinh… tất cả ùa vào thơ ông, mang nguyên những bụi bặm chiến trường, nhiều khi như một phóng sự, ghi chép sự kiện.
Huỳnh Văn Nghệ có một vùng sáng tác riêng. Đó là đời sống chiến đấu và núi rừng chiến khu Đ, nơi ông đã góp phần xây dựng, cũng là nơi ông trực tiếp chỉ huy làm nên những chiến công vang dội như trận La Ngà ngày 1.3.1948, đơn vị ông được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng thưởng Huân chương Chiến công, riêng Trung đoàn trưởng Huỳnh Văn Nghệ được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thưởng riêng một áo trấn thủ.…
Nguyễn Nguyên Hùng khẳng định: “Thơ Huỳnh Văn Nghệ dường như chỉ nói về Chiến khu Đ, nếu đem sắp chúng theo trật tự biên niên, ta sẽ có gần đủ một cuốn lịch sử Chiến khu Đ bằng thơ. Qua thơ của ông, người đọc sẽ trả lời được câu hỏi: Chiến khu Đ ra đời trước hay sau ngày Nam Bộ kháng chiến, điều mà rất nhiều người còn thắc mắc: “Chiến khu Đ có từ thuở ấy/ Có một anh đồng chí/ Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươi/ Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai/ Lập chiến khu nuôi chí lớn” (Du kích Đồng Nai).
Bùi Quang Huy khái quát hơn: “Ngẫm lại, Huỳnh Văn Nghệ như một giấc mơ. Mà đó là giấc mơ đẹp và hình như chỉ đến một lần nên người đời luôn nhớ lại và khát khao…Huỳnh Văn Nghệ đã thỏa mãn “giấc mơ” của những người thợ, của những dân cày ở đất miền Đông trên nhiều phương diện: Hiện thực và lý tưởng, ý chí và tâm hồn, phóng khoáng và dũng mãnh, gan dạ và thông minh,… Từ người “nông dân – tướng cướp” Chín Quỳ đến bậc “trưởng lão” Trần Văn Giàu, người khuyên Huỳnh Văn Nghệ đi lập Chiến khu Đ đều tìm thấy ở ông một phần giấc mơ đã thành sự thật…”. Cốt lõi cá tính sáng tạo của Huỳnh Văn Nghệ là hồn thơ trong veo, mộc mạc và đậm chất lãng mạn. Nếu đọc Hoàng Văn Bổn, (Miền đất ven sông, Trên mảnh đất này, Lũ chúng tôi…) hiện thực kháng chiến miền Đông Nam bộ hiện lên hết sức khốc liệt, máu và nước mắt, bi thương không sao tả xiết. Ngòi bút sử thi của Hoàng Văn Bổn tập trung miêu tả cái bi thương và cái hào hùng, có cả những cái ngổn ngang xô bồ của một thời.
Trái lại, cũng hiện thực ấy, trong thơ Huỳnh Văn Nghệ lại hiện lên rất đẹp. Mặc dù không phải là không có bi thương. Huỳnh Văn Nghệ đã nhìn hiện thực bằng một hồn thơ sáng trong. Những bi thương đã thăng hoa thành cái đẹp bình dị và hào hùng.
Bài thơ cũng là một lời ca ngợi sự đẹp đẽ của quê hương, sự say mê của chiến trận, và sự huyền diệu của văn chương. Nhà thơ đã dùng những hình ảnh sinh động và giàu cảm xúc để miêu tả bờ sông xanh, hoa bướm muôn màu, máu quân thù chảy đỏ quê hương, vần thơ huyền diệu…
Bài thơ cũng là một lời khẳng định tinh thần yêu nước và yêu nghệ thuật của nhà thơ. Nhà thơ đã nói rằng còn yêu thương là chiến đấu không thôi, và nếu không biết vừa làm thơ vừa giết giặc thì không xứng làm chiến sĩ. Nhà thơ cũng đã gửi lại bạn những vần thơ trên cát, biểu hiện sự khiêm tốn và hy sinh của mình.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
3 giờ trước
Top thành viên trả lời