20/12/2023
20/12/2023
Đã bao lần tôi băn khoăn tự hỏi: điều gì khiến mỗi vần thơ trong tác phẩm văn học tựa như một viên pha lê đa diện, lấp lánh, trao tặng người đọc biết bao góc nhìn tinh tế. Một dòng thơ sâu chảy tự tâm hồn? Một công trình kiến trúc từ những viên gạch ngôn từ rực rỡ? Để rồi một ngày kia khi tìm đến với những lời nồng nàn, da diết của Pautopsky tôi chợt hiểu rằng viên pha lê đa diện ánh lên tia rực rỡ ấy là những sáng tạo mới mẻ, độc đáo về cách nhìn, là thủ pháp “lạ hóa” ngôn từ tài tình của người nghệ sĩ trong tác phẩm.“Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn cùng, mất sạch tính hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”. Vì vậy, có thể thấy rằng Ngôn từ thơ là ngôn từ được cấu tạo đặc biệt.
Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều, người ta thường hay chú ý trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay, tinh tế thường được gọi là lối dùng từ đắt của Nguyễn Du, cũng như cách dùng hư từ, khối lượng từ đồng nghĩa, từ có phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao, thành ngữ, tục ngữ đúng như nhận định "ngôn từ thơ là ngôn từ được cấu tạo đặc biệt "
Ví như hai từ đầy đặn, nở nang trong câu thơ “Khuôn trăng đầy đặn/ Nét ngài nở nang” khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân. Hai từ đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn như mặt trăng đêm rằm của nàng Vân, cũng như cả cái nét ngài minh bạch, rõ ràng, uốn cong thanh tú của nàng mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận, của cuộc đời nàng. Hai chữ thua, nhường trong câu thơ “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” dùng để chỉ thiên nhiên và cũng chính là tạo hoá sẽ chịu thua mái tóc mây, dài, xanh mượt, màu da trắng như tuyết để nhường bước cho nàng đi trên con đường bằng phẳng, không hề có chông gai.
Hay như chữ thông minh trong câu “Thông minh vốn sẵn tính trời” dùng để nhấn mạnh trí tuệ thiên bẩm của nàng Kiều mà nhiều người cho rằng đó là một nhãn tự nhờ cách nhà thơ đưa từ này lên đầu câu, nó không chỉ nhằm khắc hoạ một tính cách mà là cả một nhân cách. Kiều đẹp sắc sảo, mặn mà - Một vẻ đẹp vừa rực rỡ, vừa hấp dẫn, rất có hồn. Nhưng Kiều chiếm được cảm tình nơi bạn đọc không phải vì cái vẻ sắc nước hương trời, cùng tài năng hiếm có cuả nàng, mà chủ yếu là phẩm cách tuyệt vời và một trí tuệ hơn người. Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo kiểu ấy. Chẳng hạn như câu “Anh minh phát tiết ra ngoài” … Điều đó cho thấy ánh sáng trí tuệ chính là yếu tố nổi bật trong tài hoa của Thuý Kiều.
Còn như từ não trong câu “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng từ não rất chính xác. Nội hàm ý nghĩa của từ này diễn đạt nỗi buồn đã có sẵn tự trong lòng. Nó không chỉ đơn thuần là sầu, buồn, là những từ diễn đạt nỗi buồn trên sắc diện con người mà là não (não lòng, não nuột). Âm thanh của từ ngữ này dường như xoáy sâu vào tâm can người đọc. Bởi lẽ, khúc nhạc tiêu tao của thiên bạc mệnh ấy đã từng khiến cho biết bao người rung cảm, sầu não theo từng khúc nhạc não nề. Nó đã từng khiến cho Kim Trọng nao nao lòng người, Thúc Sinh phải tan nát lòng và cho cả trái tim vô tình, sắt đá của quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến cũng phải cảm thương mà rơi châu nhỏ lệ. Cung đàn bạc mệnh của Kiều đã trở thành một hình tượng nghệ thuật thể hiện tâm hồn đa sầu, đa cảm và số phận bi thương của Kiều là vì thế. Cả câu “Não người cữ gió tuần mưa” thì từ não cũng được dùng với ý nghĩa như vậy.
Nhiều người cho rằng, Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đắt. Đắt vì nhiều khi chỉ một chữ thôi đã có thể lột tả được bản chất bên trong của con người. Đó là trường hợp câu thơ “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” mà nhà thơ dùng để khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh lúc đến hỏi Kiều về làm vợ. Một kẻ đã ngoài tứ tuần mà Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao thì thật nực cười và kỳ cục đến không thể chấp nhận được. Bởi nhẵn nhụi là từ ngữ người ta thường dùng để chỉ độ trơn, bóng, láng của đồ vật, chứ không phải dùng để chỉ tính chất trang nhã, lịch sự của con người. Còn từ bảnh bao thường dùng để khen trẻ em có quần áo đẹp lại dùng cho Mã Giám Sinh thì lại có ý chế giễu, mỉa mai. Một kẻ đã nhiều tuổi nhưng lại cố ý tô vẻ, tỉa tót thì lại trở nên kệch cỡm, giả tạo và có phần trai lơ, đàng điếm.
Với Xuân Diệu, ông chịu ảnh hưởng của thơ ca phương Tây, chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp, ngôn ngữ thơ Xuân Diệu đầy sức gợi cảm:
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”
Xuân Diệu đón nhận mùa xuân bằng đôi mắt “non tơ”, “biếc rờn”, mọi thứ tràn đầy nhựa sống. Cái đẹp rực rỡ mọi thanh sắc và cả cái ấm áp của mùa xuân “ánh sáng chớp hàng mi”. Chưa bao giờ ánh sáng hiện lên dịu dàng, tình tứ đến thế, tác giả lấy hình ảnh đôi mắt trong trẻo của cô gái để thể hiện ánh sáng mặt trời, mỗi lần nó chớp nhẹ là một lần nó chiếu sáng cả vũ trụ, mỗi ngày trôi qua niềm vui luôn tràn ngập. Quả là một thiên đường nơi trần thế với âm thanh và màu sắc vui tươi, thế mới hiểu sự khát sống, khát yêu của Xuân Diệu là đúng:
“Tôi kẻ đưa răng bấu măṭ trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời”
(“Hư vô”- Xuân Diệu)
Cách cảm nhận của Xuân diệu thật lạ, thật gợi cảm, mọi thứ cứ như đang “lấp lánh”, “kêu giòn” và “tỏa hương” làm ta như sống, như đắm mình vào không gian ấy, nhưng lạ nhất phải nói đến “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, khi đọc xưa ta thường thấy thiên nhiên mới là chuẩn mực của con người, con người xuất hiện một cách mờ nhạt, chìm lấp sau thiên nhiên:
“Phù dung như diện liễu như mi” (Bạch Cư Dị)
hay:
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười học thốt đoan trang”
(Nguyễn Du)
Giờ đây Xuân Diệu đã phá bỏ giới hạn ấy, ông khẳng định con người mới là chuẩn mực của cái đẹp. Lần đầu tiên trong văn chương, thật đúng là thơ mới! đem đến cho ta cấu tứ mới, thi liệu mới, nó đã được “lạ hóa” trở nên vô cùng độc đáo, thời gian lúc bấy giờ được chuyển đổi cảm giác một cách thần tình, mới lạ và táo bạo chỉ bằng một từ “ngon” với “đôi môi gần”, mùa xuân ấy như một người tình trinh nguyên, mơn mởn, khiến lòng ta rạo rực, muốn hưởng trọn nàng xuân. “Tháng giêng” từ một khái niệm trừu tượng giờ đây ta có thể cảm nhận bằng cả vị giác lẫn thị giác, Xuân Diệu quả là một nhà thơ tài tình, những hình ảnh tưởng chừng như “mất sạch tính chất hình tượng đối với chúng ta” lại hiện lên vô cùng quyến rũ, “lấp lánh”. Có thể nói, thơ Xuân Diệu không chỉ hướng theo lối “tả chân”, mà còn huy động giác quan để tái hiện một thế giới khách quan sống động hữu hình của cái vô hình, Việc phát huy tối đa sự cộng hưởng các giác quan như thế góp phần tạo nên chất nhạc mới mẻ, hiện đại. Ngôn ngữ thơ phải giàu tính họa, tính nhạc có thế “những chữ xơ xác” thường ngày mới có thể “lấp lánh”, “kêu giòn”, “tỏa hương”.
Không chỉ vậy, sức sáng tạo cũng là yếu tố hàng đầu làm nên ngôn ngữ thơ ca. Thơ ca luôn cần sự mới mẻ và độc đáo, chính sự mới mẻ độc đáo đó còn làm nên phong cách của nhà thơ. Xét thơ mới, không ai không biết đến cái tên Xuân Diệu. Hệ thống từ vựng thơ Xuân Diệu mới mẻ đến mức ban đầu nhiều người không chấp nhận được, không cảm nhận được. Chính Hoài Thanh cũng cho là: “lời văn Xuân Diệu có vẻ chơi vơi, Xuân Diệu làm văn như trẻ con học nói, hay như người ngoại quốc nói võ vẽ tiếng Nam, câu văn tuồng bỡ ngỡ”. Nhưng rồi chính Hoài Thanh cũng khẳng định cái ngô nghê ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
…
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Đối với Xuân Diệu ông sử dụng từ ngữ tân kỳ và “rất Tây”, dù đưa nhục thể vào thơ nhưng lại rất tinh tế bằng cách sử dụng những động từ mạnh như “muốn”, “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, và đặc biệt là “cắn”. Tính cao trào hiện lên rất rõ, thể hiện tình cảm sôi nổi, khát khao giao cảm với đời của tác giả càng lúc càng mạnh mẽ. Chưa có ai đưa vào thơ những hành động táo bạo như thế mà vẫn giữ được nét “duyên” cho câu thơ. Vẻ đẹp căng mọng tròn đầy của cuộc sống mơn mởn và tươi nguyên, hấp dẫn như trái xuân hồng, khiến cho tuổi trẻ ngông cuồng muốn đắm say tận cùng,“cắn” để trút tâm hồn mình ra mà cảm nhận vẻ tinh khiết tuyệt đích của mùa xuân, của tuổi trẻ, của cuộc sống. Cuộc đời dù hữu hạn nhưng có lẽ sức sáng tạo của ông là vô hạn, mỗi chữ tưởng chừng như “xơ xác” nhất, kén chọn nhất nhưng qua trái tim, khối óc của ông lại “lấp lánh”, “kêu giòn”, “tỏa hương” hấp dẫn người đọc đến kỳ lạ.
Tất cả những phương diện ngôn từ đều được thi sĩ dùng thuần thục, tinh vi, dám “lạ hóa” ngôn từ truyền tải những ý nghĩ mãnh liệt và táo bạo của cái tôi thi sĩ, chứng tỏ Xuân Diệu là bậc thầy về ngôn ngữ. Ông xứng đáng với danh xưng “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”(Hoài Thanh).
“Thơ là phong cảnh, là linh hồn, cũng là vận mệnh của mỗi thời đại, thơ như ngọn gió hắt hiu trên mái, như khói bảng lảng từ lò hương, là năm tháng tình nồng, cũng là thời gian thanh mát”(Bạch Lan Mai), mỗi con chữ được các nhà thơ cấu tạo đặc biệt và “lạ hóa” thoát khỏi kiếp “xơ xác”, mỗi con chữ được “lấp lánh”, “tỏa hương”, “kêu giòn” bay lên ấy là lúc một tâm hồn yêu thơ, yêu tiếng Việt được chắp cánh.
20/12/2023
Thuyền LêNhận định "ngôn từ thơ là ngôn từ được cấu tạo đặc biệt" có nghĩa là ngôn từ trong thơ có những đặc điểm riêng, khác biệt so với ngôn từ thông thường. Để làm rõ nhận định này, ta có thể xem xét một số bài thơ yêu thích và nhận thấy những đặc điểm độc đáo của ngôn từ thơ.
Những ví dụ trên chỉ là một số bài thơ và không thể đại diện cho tất cả các bài thơ. Tuy nhiên, chúng cho thấy rằng ngôn từ trong thơ thường được sắp xếp một cách đặc biệt để tạo ra hiệu ứng âm điệu, hình ảnh và cảm xúc đậm đà hơn so với ngôn từ thông thường.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời