20/02/2024
20/02/2024
Có một người đã từng nhận xét Truyện Kiều của Nguyễn Du là “ mực biết múa, bút biết bay, văn biết nhảy”. thật sự câu nói đó chẳng ngoa chút nào. Đến với Truyện Kiều chúng ta không thể không công nhận sự hấp dẫn của nó. Nói về cuộc đời đầy gian truân của Kiều thì ngòi bút Nguyễn Du như thăng hoa cảm xúc đồng cảm với số phận người phụ nữ. có thể nói trong cuộc đời Kiều đã có những bóng chàng trai đến bên Kiều làm cho Kiều hạnh phúc. Ngoài Kim Trọng, người mà Kiều thật sự yêu thương và kính trọng nhất, ngoài Từ Hải anh hùng cứu vớt đời Kiều thì còn có chàng Thúc Sinh. Tuy rằng chàng Thúc đã có vợ nhưng chính chàng đã có công cứu vớt Kiều ra khỏi lầu xanh. Nhưng thật không may khi cuộc tình ấy cũng đến lúc phải chia đôi vì hoàn cảnh không thể cho phép. Sự chia ly quyến luyến ấy được nhà thơ Nguyễn Du thể hiện rất rõ qua đoạn Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều.
Mở đầu đoạn thơ Nguyễn Du đã mang đến cho người đọc một cảm giác thật chua xót với số phận nàng Kiều:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng, bụi cuồn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh. ”
Trước mắt chúng ta hiện lên một cảnh tượng đầy đau lòng, đó chính là sự biệt li giữa hai con người. Đối với Kiều mà nói tình yêu duy nhất và người yêu mà Kiều yêu nhất đó chính là Kim Trọng thế nhưng trong cái hoàn cảnh cuộc đời là một cô kĩ nữ lầu xanh, nàng đã chung chăn gối biết bao nhiêu người đàn ông. Cái sự nhục nhã khiến cho lương tâm cô lúc nào cũng không yên nhưng chàng trai tưởng rằng thói chăng hoa Thúc Sinh ấy lại mang lại những ngày tháng hạnh phúc cho Kiều. Điều đầu tiên có ý nghĩa rất lớn với Kiều đó chính là được cứu thoát ra khỏi nơi buôn thịt bán người ấy.
Sống với Thúc Sinh không theo một danh nghĩa nào cả, kiều không có một thân phận gì nhưng ít ra Kiều không phải tiếp khách nữa. Và chính sự biết ơn cũng khiến cho Kiều mên chàng. Không những thế chàng như chỗ dựa tinh thần cho Kiều vậy. Nhưng khổ một nỗi chàng lại là người có vợ và người vợ ấy lại rất co uy quyên khiến cho Kiều không thể không e ngại. Kiều khuyên chàng thúc trở về bên Hoạn Thư để tự thú nhưng thâm tâm nàng vẫn như muốn níu lấy chàng lại. Dù gì thì cũng đã mang chút gì đó giống la vợ chồng. Vậy mà nay đôi ngã, Kiều chính là người quyết định nhưng chính cái quyết định ấy cũng khiến cho Kiều không thoải mái. Hình ảnh nàng Kiều níu lấy vạt áo chàng Thúc bịn rịn khó rứt ra rồi khi chàng Thúc lên đến ngựa thì nàng mới chịu buông tay “chia bào”. Có thể nói đó là một hình ảnh đầy nỗi buồn của Kiều. Rừng thu trong thơ cổ lại một lần nữa hiện lên ở đây và nó nhuốm màu quan san. Nhà thơ dùng thủ pháp ước lệ để cho thấy sự xa xôi cách trở của hai người. Và khi những bước chân ngựa xa vạn dặm, bụi cuốn theo những bước ngựa phi ấy thì dần dần hình ảnh chàng Thúc cũng khuất dần sau ngàn dâu xanh.
Thế rồi nàng Kiều ở lại với những trăn trở buồn thương, vậy là từ này chỉ còn mình Kiều mà thôi, không còn ai cho nàng một bờ vai để nàng dựa vào cả:
“Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi,
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường. ”
Những câu thơ vẽ lên một tâm trạng buồn thương vô hạn, tất cả sự chung đôi như tan biến vĩnh viễn, tất cả những niềm vui, niềm hạnh phúc cũng theo chàng Thúc mà ra đi chỉ còn lại đây những tàn tạ của cảnh vật của tâm trạng. Người con gái năm canh như thức trắng nhớ thương hay thiếu bóng chàng Thúc Sinh. Người thương người nhớ ấy đã vạn dặm mà xa nàng rồi chỉ còn mình nàng ngồi đây với những buồn thương tủi phận. Không chỉ người mà đến cảnh vật cũng nhuốm màu phôi pha của tâm trạng. Vầng trăng ngày nào giờ đây cũng không còn nguyên vẹn mà nó nhuốm màu của sự chia ly. Nó cũng như được xẻ làm đôi và không biết rằng ai sẻ. Có thể nói chính tâm trạng chia ly của Kiều đã làm cho cảnh vật vốn vĩnh hằng cũng không thể trọn vẹn. Nó gợi lên sự tan đàn sẻ nghé buồn tủi của Kiều. Ngay cả đến chiếc giường, cái gối cũng vậy, nó không bị xẻ nhưng nó thiếu đi một người nằm. Sự trống trải khiến cho nhân vật càng chìm trong sự cô đơn.
Qua đây ta thấy được những nét tâm trạng và cảnh chia ly đau khổ của nàng Kiều với chàng Thúc. Hai người có duyên đến với nhau nhưng lại không có phận làm vợ làm chống. Chính điều đó quyết định đến hành động của Kiều. Nhưng qua đoạn trích trên ta thấy là do Kiều bị hoàn cảnh ép buộc chứ bản thân Kiều không hề mong muốn điều đó. Bằng biện pháp nghệ thuật của thơ xưa ước lệ Nguyễn Du đã mang đến cho chúng ta những cảm xúc khó quên về sự khó khăn của nàng Kiều.
20/02/2024
Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19). Đây được coi là một trong những kiệt tác của nền văn học Việt Nam trung đại. Tác phẩm đã để lại nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật.
Truyện Kiều kể về cuộc đời của Thúy Kiều - một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Trong một lần du xuân, Kiều vô tình gặp gỡ Kim Trọng và có một mối tình đẹp đẽ bên chàng Kim. Hai người chủ động gặp gỡ và đính ước với nhau. Gia đình Kiều bị nghi oan, cha bị bắt, Kiều quyết định bán mình để chuộc cha. Trước khi bán mình, Kiều trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Thúy Kiều bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Những rồi Kiều lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng một lần nữa bị rơi vào chốn thanh lâu. Ở đây, Kiều gặp được Từ Hải - một “anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều và giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa tổng đốc Hồ Tôn Hiến, Kiều vô tình đẩy Từ Hải vào chỗ chết. Đau đớn, nàng trẫm mình xuống sông thì được sư Giác Duyên cứu. Lại nói Kim Trọng khi từ Liêu Dương chịu tang chú xong quay về, biết Thúy Kiều gặp phải biến cố thì đau lòng. Chàng kết hôn cùng Thúy Vân nhưng vẫn ngày nhớ đêm mong gặp lại Kiều. Chàng liền quyết tâm đi tìm nàng, gia đình đoàn tụ. Túy Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai đã nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Giá trị nội dung của Truyện Kiều thể hiện ở giá trị hiện thực và nhân đạo. Trước hết, về giá trị nhân đạo, tác phẩm đã khắc họa bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo và coi trọng đồng tiền. Đồng thời, Nguyễn Du còn cho thấy một xã hội phong kiến bất công đã chà đạp con người, đặc biệt là người phụ nữ. Cuộc sống của gia đình Thúy Kiều đang bình yên. Nhưng chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, cha Kiều bị bắt. Cuộc đời Kiều phải rẽ sang hướng khác. Nàng phải từ bỏ duyên đẹp đẽ với Kim Trọng, bán mình chuộc cha. Thúy Kiều còn bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Những rồi Kiều lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng một lần nữa bị rơi vào chốn thanh lâu. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiểu trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán. Nàng còn trở thành vợ lẽ, bị người ta lăng nhục, đày đọa và cuối cùng phải tự vẫn.
Truyện Kiều đã bộc lộ sự trân trọng con người. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Thúy Kiều từ những vẻ đẹp từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Tác phẩm còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người đặc biệt là người phụ nữ. Cuối cùng, truyện là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người. Mối tình Kim Trọng và Thúy Kiều đã đi vào lòng người đọc. Sự thủy chung, si tình của Kim Trọng khiến ta không khỏi ngưỡng mộ. Ngoài ra, với Truyện Kiều, tác giả còn thể hiện khát vọng công lí tự do với hình tượng nhân vật Từ Hải, người anh hùng dám chống lại xã hội phong kiến tàn bạo.
Tiếp đến là giá trị nghệ thuật mà đầu tiên phải kể đến về mặt ngôn ngữ. “Truyện Kiều” được đánh giá là đạt đến trình độ mẫu mực về ngôn ngữ. Nguyễn Du đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Nhiều điển tích, điển cố được sử dụng để miêu tả tâm trạng, phẩm chất (“sông Tương”, “sân Lai”, “gốc tử”, “nàng Ban”, hay “ả Tạ”…). Cách dùng từ tinh tế là một trong những biệt tài của Nguyễn Du khi miêu tả nhân vật và cảnh vật. Ví dụ như khi miêu tả nhân vật Tú Bà, tác giả đã sử dụng từ láy “nhờn nhợt” (Thoắt trông nhờn nhợt màu da). Hay động từ “lẻn” (Mặt mo đã thấy Sở Khanh lẻn vào) để làm nổi bật sự xảo quyệt của Sở Khanh…
Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du cũng để lại những ấn tượng sâu sắc. Nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng được sử dụng. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Nguyễn Du cũng rất thành công khi xây dựng tâm trạng nhân vật với bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một ví dụ điển hình:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Ngoài ra, việc sử dụng thể bát cũng đã mang lại những thành công to lớn cho việc chuyển tải nội dung tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đây là thể thơ vốn có rất nhiều yếu tố tạo hình và rất giàu tính nhạc, nhất là ở những đoạn khắc họa chân dung nhân vật.
Qua phân tích trên, có thể khẳng định, Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm chính là di sản quý giá của nền văn chương nước nhà.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời