27/04/2024
27/04/2024
27/04/2024
“Người ta vẫn nghĩ Đoàn Phú Tứ chỉ có tài viết kịch và diễn kịch. Nhưng thơ hay không cần nhiều. Đoàn Phú Tứ chỉ làm có dăm bảy bài mà hầu hết là những bài đặc sắc”(Hoài Thanh). Đoàn Phú Tứ - một tên tuổi không thể phủ nhận trong làng văn học Việt Nam, được biết đến không chỉ với tài viết kịch và diễn kịch mà còn với những bài thơ đặc sắc. Dù số lượng bài thơ của ông không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm lại là một bức tranh tinh thần đầy ý nghĩa và sâu sắc. Trong đó, bài thơ "Màu Thời Gian" không chỉ là một tác phẩm văn chương mà còn là một câu chuyện triết lý về sự trôi chảy của thời gian và tình yêu, là một biểu hiện tinh tế về vẻ đẹp và sức mạnh của ngôn từ.
“Sớm nay tiếng chim thanh…
Màu thời gian tím ngắt.”
Đoàn Phú Tứ là một nhà soạn kịch, nhà thơ, dịch giả Việt Nam nổi danh từ thời tiền chiến. Sinh ra tại Hà Nội, mảnh đất lãng mạn đã bồi đắp nên tâm hồn của biết bao thi sĩ và tâm hồn của ông, và cũng để từ đó tâm hồn ấy tạo nên một “Màu Thời Gian” đầy ẩn ý và sâu sắc. Nói về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ thì nó bắt đầu từ câu chuyện tình của ông với cô gái tên Nguyễn Thị Vân. Vừa đẹp người đẹp nết lại vừa biết chơi dương cầm, Nguyễn Thị Vân hiện ra đúng nghĩa một tiểu thư khuê các trong mắt kẻ si tình bần hàn Đoàn Phú Tứ. Nguyễn Thị Vân đổ bệnh nặng, Đoàn Phú Tứ hay tin liền đánh liều đến gặp lần cuối nhưng Nguyễn Thị Vân không muốn gặp khi nhan sắc tiều tụy do bệnh tật và họ lỡ mất lần cuối cùng được gặp nhau. Đoàn Phú Tứ ôm nỗi sầu ấy mà viết nên “Màu thời gian” vào năm 1939. Qua bài thơ, ta hiểu ra được một chân lý: thời gian không làm mọi vật biến mất mà mà chuyển sang một dạng lưu trữ khác, và tình yêu làm cho thời gian trở nên có màu sắc, có ý nghĩa.
“Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình..”
Mở đầu bài thơ, tác giả bắt đầu bằng một tiếng chim trong trẻo và thanh thoát, mang đến một không gian yên bình và tươi vui. Từ đó đem lại cho không gian sự sống, hy vọng và trở nên sống động, tươi mới. Đoàn Phú Tứ đi kể câu chuyện của mình thông qua một làm gió nhẹ nhàng, thông qua một câu chuyện dân gian: Xưa có người cung phi, nàng Lý phu nhân, lúc gần mất nhất định không cho vua Hán Võ-đế xem mặt, sợ trông thấy nét mặt tiều tụy thì vua sẽ hết yêu. Cũng như câu chuyện của chính mình, người mà ông thầm thương trộm nhớ đổ bệnh nặng, và rồi ông lỡ mất lần cuối gặp nhau với người ấy cũng vì nỗi lo sợ nhan sắc, sợ mất mặt…
“…Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh…”
Câu chuyện đó cũng từ thời gian rất xa xưa, nên không còn phải bận tâm, không còn làm lạnh lòng nữa nhưng cũng để lại sức gợi lớn. Câu thơ chính là niềm mong muốn được dâng hiến tất cả cho người mình yêu của tác giả, nhưng ông chẳng có tư cách gì vậy nên đành phải mượn hình ảnh của mây để chỉ tâm hồn mình. Hình ảnh của trời mây nhuốm màu thời gian tạo ra một không gian lãng mạn và sâu lắng, thể hiện sự trôi chảy và biến đổi của thời gian. Mây là một biểu tượng của sự bay bổng và tự do, gợi lên ý niệm về sự vĩnh cửu, về sự đồng hành bất diệt với thời gian, thời gian không phụ thuộc vào bất kỳ sự kiểm soát nào và luôn di chuyển theo quy luật tự nhiên của nó. Ông lặng lẽ dâng hiến tấm lòng mình, dâng hiến tất cả cho người mình yêu cũng như những làn mây nhẹ nhàng lơ lửng ôm lấy trời, bao trùm thời gian. Trong thời kỳ Pháp thuộc, tư tưởng của ta vẫn bị phụ thuộc rất nhiều vào Pháp. Người Pháp thời bấy giờ cho rằng thời gian có màu xanh lá, nhưng Đoàn Phú Tứ lại không như vậy. Có lẽ là do Nguyễn Thị Vân, người mà ông thầm yêu đem lòng thích một thứ hoa tím vì vậy mà ông cũng chỉ nhìn thấy màu tím, vượt qua mọi định kiến, quan niệm thời bấy giờ. Sự mô tả về màu sắc của thời gian từ xanh đến tím ngát tượng trưng cho sự thay đổi và biến đổi của cuộc sống, của tình yêu, là biểu tượng cho sự già dặn và trưởng thành của tình yêu. Điều này cho thấy rằng tình yêu không bao giờ là tĩnh lặng, mà luôn phải trải qua sự thay đổi và phát triển theo thời gian. Bằng cách ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, tác giả đã đưa độc giả đến một loạt các cung bậc cảm xúc khác nhau, thời gian không có hương nhưng ông đã làm cho nó có. Hương thời gian cũng như thứ hương hoa mà bà Vân thích, không nồng nàn mà nhẹ nhàng, thanh thoát. Hương thời gian chính như tình yêu, không cần phải quá mãnh liệt, mà chỉ cần dịu dàng và chân thành. Bằng cách sử dụng động từ phủ định: “không”, ta thấy một Đoàn Phú Tứ hết sức si tình. Ông thay đổi mọi định nghĩa, mọi định kiến cho người mình yêu cho dù nó có viển vông, không thực tế, là một sự tôn trọng rất lớn của ông dành cho người mình yêu.
Những dòng thơ tiếp theo lại gợi cho ta một cảm giác đượm buồn, cũng có lẽ là tâm trạng của tác giả:
“Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên trăm năm dứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát.”
Hình ảnh "tóc mây một món chiếc dao vàng" tượng trưng cho sự mong manh và tinh tế của tình yêu. Tóc mây mềm mại, mơ màng nhưng cũng dễ tàn phai và mất đi trong gió. Chiếc dao vàng biểu hiện sự quý phái và đẳng cấp, nhưng cũng là biểu tượng của sự chấp nhận và hy sinh. Câu thơ này gợi lên hình ảnh của một tình yêu cao quý, mong manh nhưng cũng vô cùng quý giá và đáng trân trọng. Tác giả lại tiếp tục kể câu chuyện về nàng Dương Quý Phi, chuyện là nàng Dương Quý Phi lúc mới vào cung, tính hay ghen, bị Đường Minh Hoàng đưa giam một nơi. Nhưng nhà vua nhớ quá sai Cao lực sĩ ra thăm, Dương Quý Phi cắt tóc gửi vào dâng vua. Vua trông thấy tóc, thương quá, lại mời nàng vào cung. Đoàn Phú Tứ hợp chuyện này và chuyện Lý phu nhân làm một và tưởng tượng một người cung phi lúc gần mất không chịu để vua xem mặt chỉ cắt tóc dâng, gọi là đáp lại trong muôn một mối tình trìu mến của đấng quân vương. "Nghìn trùng e lệ phụng quân vương" tiếp tục khẳng định sự hy sinh và tận tụy trong tình yêu. E lệ của nghìn trùng biểu hiện sự hy sinh và lòng trung thành không biên giới của người phụ nữ, nhưng cũng có thể là biểu tượng cho những nỗi đau và khó khăn mà người yêu phải trải qua trong cuộc sống. Ở đây, Đoàn Phú Tứ dùng từ “phụng” chứ không phải là “dâng” hay “hiến”, bởi lẽ “phụng” tức là “cung phụng”, kín đáo nhưng không suồng sã hay xa vời mà rất chân thành. Câu "Trăm năm tình cũ lìa không hận" thể hiện sự bao dung và khoan dung, cho thấy người viết không mang theo bất kỳ oán hận nào sau sự chia ly. Điều này đồng nghĩa với việc ông chấp nhận sự thay đổi và mất mát một cách hoà nhã và tự tin. Ta thấy rằng, tác giả đã chấp nhận đi nỗi mất đi người yêu, tha thứ cho hành động của người thương dù hành động đó đã làm lỡ đi lần cuối cùng có thể gặp mặt. Ông hiểu rằng giữ lại oán hận không giúp ích gì cho bất kỳ ai, mà chỉ làm tổn thương thêm bản thân và người khác. Thay vào đó, ông chọn sự bình thản và sự hiểu biết, để cho cuộc sống tiếp tục điều chỉnh và mở ra những cơ hội mới. Có lẽ Dương Quý Phi cũng có điểm tương đồng với Nguyễn Thị Vân, bà thà để lỡ, để phụ lòng ông còn hơn là gặp nhau trong lúc nhan sắc đang tiều tụy. Tuy duyên đã hết, nhưng nó vẫn để lại những rung động khó khai cho tác giả, thứ tình yêu ấy có lẽ sẽ vẫn còn tỏa hương mãi. Ở cuối tác phẩm, ông nhắc lại những cảm nhận ấy một lần nữa “hương thời gian…” tạo được âm vang, kết thúc mở cho bài thơ. Tác giả không sử dụng “tím ngắt” mà dùng “tím ngát”, bởi cũng giống như thứ tình cảm của ông, không phô trương mà dịu dàng, không đau đớn như từ “ngắt”. "Ngắt" thường gợi lên hình ảnh của sự chấm dứt đột ngột và đau đớn, trong khi "ngát" mang lại một cảm giác dịu dàng và êm ái hơn do ông không muốn sử dụng những từ ngữ quá sắc bén hay đau buồn để miêu tả thời gian và tình cảm.
Bài thơ tập trung vào chủ đề về thời gian và tình yêu, hai khía cạnh của cuộc sống đầy sức mạnh và sâu sắc. Thông qua các dòng thơ, tác giả miêu tả những cảm xúc và trạng thái tinh thần của nhân vật chính đối diện với thời gian và tình yêu, từ sự hân hoan của tình yêu thầm đến sự sâu lắng và trưởng thành của tình yêu khi đã hết duyên. Sử dụng ngôn từ và cú pháp cũng là một điểm đáng chú ý trong bài thơ này. Tác giả sử dụng từ ngữ tinh tế và hình ảnh sắc nét để tạo ra một không gian văn học sống động và mê hoặc cho người đọc bằng cách sử dụng các từ ngữ như "thanh thanh", "tím ngát". Tạo ra một bức tranh về thời gian và tình yêu, không chỉ là sự thay đổi và biến đổi, mà còn là sự bình yên và dịu dàng.Bằng kết thúc mở, không đưa ra một kết luận cụ thể hay một hình ảnh rõ ràng, thay vào đó tác giả để lại cho người đọc một không gian để suy ngẫm và tưởng tượng, tạo ra một ấn tượng cuối cùng mạnh mẽ và tinh tế, để lại cho người đọc một cảm giác của sự mở cửa và sự tiếp tục của cuộc sống.
“Bản chất của tình yêu là hy vọng. Nhiều khi trước một sự thật phũ phàng đã rõ mười mươi, người ta vẫn tìm cách giải thích theo chiều hướng ít bi quan nhất” - Nguyễn Nhật Ánh.
27/04/2024
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
06/08/2025
Top thành viên trả lời