Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm Truyện Kiều - kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" nằm ở phần đầu của tác phẩm đã khắc họa lên bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, náo nhiệt trong con mắt của chị em Thúy Kiều vào tiết thanh minh.
Đoạn trích gồm có hai mươi bốn câu thơ (từ câu 39 đến câu 62) thuộc phần đầu của tác phẩm "Truyện Kiều". Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, náo nhiệt trong con mắt của chị em Thúy Kiều vào tiết thanh minh.
Bốn câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã gợi lên khung cảnh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi đẹp:
"Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa."
Mùa xuân được mở ra bằng hình ảnh đàn chim én đang chao lượn trên bầu trời. Từ "đưa thoi" cho thấy sự chuyển động nhanh chóng, liên tục của cánh chim én. Hình ảnh so sánh "thiều quang" với "chim én đưa thoi" vừa gợi lên vẻ đẹp rực rỡ, tươi sáng của ánh sáng mùa xuân, vừa diễn tả cảm giác thời gian trôi qua rất nhanh. Câu thơ thứ ba sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ kết hợp với tính từ "xanh" và danh từ "chân trời" nhằm nhấn mạnh màu sắc tươi mới, tràn đầy sức sống của cỏ cây trong mùa xuân. Màu xanh của cỏ non trải dài tới tận chân trời như tô điểm thêm cho vẻ đẹp của mùa xuân. Câu thơ cuối cùng sử dụng bút pháp chấm phá, lấy cái cụ thể để miêu tả cái trừu tượng. Hình ảnh "cành lê trắng điểm một vài bông hoa" không chỉ gợi lên vẻ đẹp tinh khôi, trong trẻo của mùa xuân mà còn thể hiện sự xuất hiện của mùa xuân. Bốn câu thơ đầu đã phác họa thành công bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi đẹp, rộn ràng.
Sáu câu tiếp theo, tác giả tập trung miêu tả cảnh lễ hội trong tiết thanh minh:
"Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm."
Hai câu thơ đầu tiên giới thiệu về ý nghĩa của lễ hội thanh minh. Lễ hội thanh minh thường diễn ra vào tháng ba âm lịch, bao gồm hai hoạt động chính là tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và đạp thanh (đi chơi xuân ở chốn đồng quê). Hai câu thơ tiếp theo sử dụng các từ láy "gần xa", "nô nức" và nghệ thuật so sánh "như đi hội chùa" để gợi lên không khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội thanh minh. Mọi người từ khắp nơi đổ về tham gia lễ hội, tạo nên một không gian sôi động, tấp nập. Hai câu thơ cuối cùng sử dụng phép liệt kê "chị em", "tài tử", "giai nhân", "ngựa xe", "áo quần" để miêu tả sự đa dạng, phong phú của những người tham gia lễ hội. Họ đều ăn mặc đẹp đẽ, trang trọng, tạo nên một bức tranh sinh động, nhiều màu sắc. Sáu câu thơ đã tái hiện thành công không khí tưng bừng, náo nhiệt của lễ hội thanh minh.
Bốn câu thơ cuối cùng, tác giả tập trung miêu tả tâm trạng của chị em Thúy Kiều khi trở về nhà sau buổi du xuân:
"Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh."
Thời gian trôi qua nhanh, mặt trời bắt đầu lặn xuống phía tây, báo hiệu một ngày sắp kết thúc. Chị em Thúy Kiều lưu luyến rời khỏi lễ hội, trở về nhà. Tâm trạng của họ lúc này thật khó tả, vừa vui sướng, phấn khởi sau một ngày du xuân, lại vừa buồn bã, tiếc nuối vì phải chia tay với những người bạn mới quen. Cảnh vật xung quanh cũng mang một vẻ đẹp dịu dàng, êm đềm, phù hợp với tâm trạng của chị em Thúy Kiều. Dòng suối nhỏ chảy róc rách, uốn lượn quanh co, tạo nên một khung cảnh yên bình, tĩnh lặng. Bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân được miêu tả trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân" thật tươi đẹp, sinh động. Qua đó, ta có thể cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, lòng ham sống mãnh liệt của Nguyễn Du. Đồng thời, đoạn trích cũng góp phần thể hiện tài năng miêu tả thiên nhiên của ông.