Viết bài văn so sánh 2 tác phẩm truyện "Tắt đèn" - Ngô Tất tố và "Lão hạc" - Nam Cao. Giúp mình vs

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của hihihiz
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

23/08/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Truyện ngắn là một thể loại văn học được nhiều người yêu thích bởi tính hấp dẫn, lôi cuốn của nó. Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều những tác phẩm truyện ngắn đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Một trong số đó phải kể đến hai tác phẩm “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao và “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Hai tác phẩm này đã khắc họa thành công hình ảnh người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với cuộc sống nghèo khổ, bế tắc nhưng vẫn tràn đầy phẩm chất tốt đẹp.
Trước hết về nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao. Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ, bất hạnh. Vợ lão mất sớm, lão chỉ còn lại một người con trai. Con trai lão vì không lấy được vợ nên phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng có tin tức gì. Lão Hạc chỉ còn lại cậu Vàng - kỉ vật mà con trai lão để lại làm nguồn động viên, an ủi cho lão vượt qua những tháng ngày cô đơn, buồn tủi. Nhưng cuộc sống ngày càng khó khăn, lão đã phải bán cậu Vàng - người bạn thân thiết của mình. Rồi lão đem gửi tiền và mảnh vườn cho ông giáo - người trí thức nghèo hay sang nhà lão chơi. Sau đó lão xin Binh Tư ít bả chó để tự tử. Cái chết của lão thật đau đớn và dữ dội. Lão chết như một con chó, chết vì ăn bả chó. Cái chết của lão Hạc khiến chúng ta không khỏi xót xa, thương cảm. Lão Hạc là một người nông dân lương thiện, giàu tình yêu thương. Lão yêu thương con vô bờ bến. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với sự cô đơn, buồn tủi chứ không muốn ảnh hưởng tới cuộc sống của con. Không chỉ vậy, lão cũng là một người giàu lòng tự trọng. Dù sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn nhưng lão luôn giữ gìn giá trị, phẩm chất của mình. Trước khi chết, lão đã nhờ ông giáo giữ hộ mảnh vườn và tiền để lo ma chay để không làm phiền hàng xóm. Chính điều đó đã khiến người đọc thêm trân trọng và yêu mến lão hơn. Nhân vật thứ hai là chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Chị Dậu là một người phụ nữ nông dân nghèo khổ, bất hạnh. Chồng chị bị bắt đi phu, chị phải một mình gánh vác gia đình. Chị phải chạy vạy khắp nơi để lo tiền sưu thuế cho chồng. Để có tiền nộp sưu, chị đành cắn răng bán đứa con gái đầu lòng cho nhà Nghị Quế. Tối hôm ấy, anh Dậu vừa mới tỉnh dậy thì bọn cai lệ và người nhà lí trưởng xông vào định trói anh mang đi. Chúng không thèm nghe anh giải thích, thậm chí còn đánh đập dã man. Chị Dậu ra sức van xin, năn nỉ nhưng chúng không tha. Quá phẫn nộ, chị đã liều cự lại và chống trả quyết liệt, quật ngã hai tên tay sai. Hành động của chị Dậu thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của người nông dân trước ách áp bức của thực dân phong kiến. Đồng thời, nó cũng thể hiện tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của người phụ nữ Việt Nam. Cả hai nhân vật đều có chung hoàn cảnh xuất thân là người nông dân nghèo khổ, bất hạnh. Họ đều phải chịu đựng những áp bức, bóc lột nặng nề của xã hội phong kiến. Tuy nhiên, họ lại có những nét riêng biệt về tính cách. Lão Hạc là một người nông dân lương thiện, giàu tình yêu thương. Còn chị Dậu là một người phụ nữ nông dân kiên cường, bất khuất. Bên cạnh những điểm tương đồng, hai nhân vật cũng có những điểm khác biệt. Về tính cách, lão Hạc là một người hiền lành, chất phác, đôn hậu. Lão luôn quan tâm, chăm sóc cho cậu Vàng - kỉ vật duy nhất mà con trai để lại. Khi buộc phải bán cậu Vàng, lão đã đau đớn, dằn vặt khôn nguôi. Ngược lại, chị Dậu là một người phụ nữ cứng cỏi, quyết đoán. Chị dám đứng lên chống lại bọn tay sai để bảo vệ chồng. Điều đó thể hiện tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của người phụ nữ Việt Nam. Về hành động, lão Hạc chọn cái chết để bảo toàn danh dự, nhân phẩm của mình. Còn chị Dậu dùng bạo lực để chống lại bọn tay sai. Mỗi nhân vật đều có những vẻ đẹp riêng, góp phần làm nên thành công của tác phẩm. Qua hai nhân vật trên, chúng ta thấy được cuộc sống khốn khổ, cơ cực của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đồng thời, chúng ta cũng thấy được những phẩm chất tốt đẹp của họ, đó là lòng yêu thương con, đức hi sinh cao cả, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Lynn

09/09/2025

Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Lão Hạc của Nam Cao là hai kiệt tác của văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, cùng phản ánh số phận khốn khổ của người nông dân. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm lại có cách tiếp cận và khắc họa riêng, tạo nên những giá trị độc đáo.

Tác phẩm tập trung phản ánh sự áp bức, bóc lột của sưu cao thuế nặng và những hủ tục lạc hậu trong xã hội phong kiến. Chủ đề chính là cuộc đấu tranh sinh tồn, chống lại cường quyền và bạo lực. Nhân vật chính, chị Dậu, là biểu tượng của sức sống mãnh liệt, sự quật cường, sẵn sàng vùng lên để bảo vệ những gì thiêng liêng nhất. Tác phẩm mang tính tố cáo mạnh mẽ, vạch trần bộ mặt tàn ác của giai cấp thống trị.

Nhân vật chính là chị Dậu, một người phụ nữ nông dân điển hình. Chị Dậu là hiện thân của vẻ đẹp tâm hồn, sự chịu đựng và đặc biệt là sức mạnh phản kháng. Khi bị dồn vào đường cùng, chị Dậu đã trở nên quật cường, mạnh mẽ, vùng lên chống trả. Nhân vật được xây dựng từ hành động bên ngoài đến nội tâm bên trong, làm nổi bật sự đấu  tranh sinh tồn.

Ngô Tất Tố sử dụng lối viết trần thuật, miêu tả chi tiết, sinh động các cảnh đời và sự kiện. Ngôn ngữ truyện đậm chất nông thôn, với nhiều từ ngữ địa phương, tạo nên sự gần gũi, chân thật. Tác giả đã miêu tả tâm lý nhân vật thông qua hành động, lời nói, làm nổi bật sự mạnh mẽ, quyết liệt.

Lão Hạc lại đi sâu vào bi kịch tinh thần và nhân phẩm. Tác phẩm không chỉ phản ánh sự nghèo khổ mà còn thể hiện bi kịch của một người nông dân giàu lòng tự trọng. Lão Hạc phải đối mặt với sự giằng xé nội tâm khi buộc phải bán con chó mà mình yêu thương nhất để sống. Chủ đề của tác phẩm là sự tha hóa và bảo toàn nhân phẩm trong hoàn cảnh khốn cùng.

Lão Hạc là hình tượng người nông dân già cả, cô độc. Lão không có sức mạnh phản kháng như chị Dậu. Bi kịch của lão Hạc là bi kịch của sự bất lực, không thể vượt qua hoàn cảnh. Nỗi đau của lão là nỗi đau nội tâm, sự dằn vặt, day dứt khi phải từ bỏ thứ quý giá nhất. Lão Hạc chọn cái chết để bảo toàn nhân phẩm, để không sống nhờ vào số tiền đã bán con chó.

Nam Cao lại chú trọng vào lối viết phân tích tâm lý. Tác giả đi sâu vào nội tâm nhân vật, miêu tả những suy nghĩ, dằn vặt, đau khổ của lão Hạc. Ngôn ngữ truyện tinh tế, giàu tính triết lý, gợi ra những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời.

Mặc dù cùng khắc họa số phận người nông dân, nhưng "Tắt đèn" và "Lão Hạc" có những nét riêng biệt. "Tắt đèn" là bản cáo trạng tố cáo tội ác của xã hội phong kiến, ca ngợi sức mạnh phản kháng của người nông dân. Còn "Lão Hạc" là một tiếng thở dài xót xa, đi sâu vào bi kịch tinh thần, bảo toàn nhân phẩm. Cả hai tác phẩm đều là những bức tranh hiện thực sống động, có giá trị vĩnh cửu.

 

 

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Hand1818

27/08/2025

Trong văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, hình tượng người nông dân bị áp bức và đau khổ là một trong những mạch chủ đạo. Nếu “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố phơi bày nỗi thống khổ cùng cực của người phụ nữ nông dân trước sưu cao thuế nặng, thì “Lão Hạc” của Nam Cao lại khắc họa bi kịch tinh thần của người nông dân nghèo, lương thiện trong cảnh mất đất, mất niềm tin vào cuộc sống. Hai tác phẩm tuy khác nhau về giọng điệu và cách tiếp cận nhưng đều góp phần làm nổi bật nỗi bất hạnh cũng như phẩm chất cao quý của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.

Trước hết, cả hai tác phẩm đều phản ánh một hiện thực xã hội tăm tối, nơi người nông dân bị dồn vào bước đường cùng. Ở “Tắt đèn”, chị Dậu bị bủa vây bởi gánh nặng sưu thuế, chồng đau ốm, con thơ dại, cuối cùng phải bán con, bán chó, thậm chí có lúc liều mình chống lại cường quyền. Nỗi thống khổ ấy tố cáo sự tàn nhẫn của chế độ thực dân phong kiến. Còn trong “Lão Hạc”, nhân vật chính rơi vào cảnh nghèo khổ, cô độc, không đủ tiền để lo hậu sự cho mình, phải bán đi con chó – kỉ vật của người con trai. Sự dằn vặt về tinh thần, sự bế tắc đến mức phải chọn cái chết đã khắc họa nỗi đau không lời của người nông dân.

Tuy cùng phản ánh hiện thực, nhưng hai tác phẩm lại khác nhau về nghệ thuật và cảm hứng chủ đạo. Ngô Tất Tố chọn bút pháp hiện thực gay gắt, dựng nên những cảnh tượng kịch tính, căng thẳng, giọng văn giàu chất phê phán. Ngược lại, Nam Cao đi sâu vào đời sống nội tâm, miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, với giọng điệu thương cảm, xót xa. Nếu “Tắt đèn” là bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội bất công, thì “Lão Hạc” là khúc bi ca về phẩm chất cao đẹp và nỗi đau tinh thần của người nông dân.

Nhìn chung, cả Ngô Tất Tố và Nam Cao đều gặp nhau ở tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Họ không chỉ tố cáo hiện thực tàn nhẫn mà còn khẳng định vẻ đẹp của người nông dân: sự hi sinh, lòng thương con tha thiết ở chị Dậu; nhân phẩm, tình thương và sự trung thực ở lão Hạc. Qua đó, các tác phẩm để lại dấu ấn đậm nét trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam, góp phần lay động lòng người, chuẩn bị về tư tưởng cho những đổi thay lớn lao của lịch sử dân tộc.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Mew Mew

08/10/2024

hihihizTô Hoài và Kim Lân đều là một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm của họ đều lấy cảm hứng từ cuộc sống hiện thực của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng tám. Hai tác phẩm “Vợ Nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” tuy phản ánh số phận của hai người nông dân khác nhau nhưng đều mang một kết thúc mở. Nơi mà niềm hy sinh về cuộc sống mới tự do và hạnh phúc của họ được gửi gắm. Kết truyện không chỉ là những tình tiết khép lại câu chuyện mà còn là nơi mà các nhà văn thể hiện những quan niệm, tư tưởng và mở ra những con đường cho nhân vật của mình. Nếu kết thúc truyện Chí Phèo là sự giải thoát cho một kiếp người bị tha hóa bởi xã hội thì cái kết của "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" lại được nhà văn Kim Lân, Tô Hoài mở ra bằng một hướng đi mới cho những số phận đau khổ cho những con người trong hai tác phẩm đó.


Hai tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" là hai tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của hai tác giả. Nếu như Kim Lân viết về tình cảnh thê thảm, tang thương của những người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 thì Tô Hoài lại viết về cuộc sống tủi nhục, tối tăm của những người nông dân nghèo vùng núi Tây Bắc. Tuy khác nhau về chủ đề và cách thức thể hiện nhưng cả hai tác phẩm đều có những nét tương đồng, cả hai truyện ngắn đều viết về cuộc sống và số phận của những người nông dân nghèo; đều thể hiện sự đồng cảm, trân trọng của nhà văn với số phận và vẻ đẹp của các nhân vật, điều này được thể hiện rõ nét qua phần kết của hai tác phẩm.

Truyện ngắn "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân được viết năm 1954 về cuộc sống của những người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nhân vật chính của câu chuyện là Tràng - một người đàn ông nghèo khổ, xấu xí sống trong xóm Ngụ Cư. Trước sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của mọi người, Tràng bất ngờ có vợ ngay khi nạn đói đang hoành hành dữ dội nhất. Truyện kết thúc trong chi tiết bữa cơm thảm hại ngày đói của gia đình Tràng: "có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo" và tiếng tiếng trống thúc thuế dồn dập. Trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh những dòng người "ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm".

<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>


Kết thúc của Vợ nhặt được Kim Lân lấy cơ sở từ chính hiện thực cuộc sống của đất nước ta lúc bấy giờ. Bởi sau nạn đói năm 1945, cả đất nước ta đang chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành lấy chính quyền và tiên phong chính là phong trào đi phá kho thóc Nhật để chia cho dân nghèo. Những người nông dân cả đời chân lấm tay bùn, họ ít học, ít hiểu, thế những cái đói khát cùng cực đã giúp họ nhận rõ kẻ thù của mình, đó chính là thực dân Pháp và Phát xít Nhật. Trong khi thực dân Pháp thực hiện chính sách vơ vét của cải thì bọn phát xít Nhật lại bắt dân ta "nhổ cỏ trồng đay", đây cũng chính là nguyên nhân chính gây ra thảm họa nạn đói khủng khiếp 1945 cho dân tộc Việt Nam. Sống trong đói khát, trong cái chết rình rập nên những người nông dân đã ý thức được và tìm cách đấu tranh giành lấy sự sống. Và họ đến với cách mạng như một điều tất yếu, một lẽ đương nhiên. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không thể hiện rõ ràng rằng Tràng có đi theo "lá cờ đỏ" ấy không, nó chỉ mở ra một hướng liên tưởng cho người đọc. Thế nhưng phải chăng qua cái "kết thúc mở" ấy, nhà văn Kim Lân muốn cho người đọc hiểu rằng cuộc đời của các nhân vật trong câu chuyện của mình rồi sẽ thay đổi nếu như họ bắt gặp được ánh sáng Cách mạng? Cuộc đời của Tràng mở ra bằng ánh chiều tà chập choạng với những cảnh "đói sầm vì đói khát", thế nhưng khi kết thúc lại là ánh bình minh của người mới với hình ảnh của "lá cờ đỏ" kia. Tuy là một kết thúc mở nhưng nó đã gieo vào lòng chúng ta niềm tin mãnh liệt vào sự đổi đổi của Tràng, của gia đình Tràng, của hàng ngàn người dân nghèo khác.

Với "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài lại dẫn người đọc đến với cuộc sống của những người nông dân nghèo vùng Tây Bắc. Nhân vật chính trong truyện là Mị và A Phủ. Nếu như Mị là cô "con dâu gạt nợ" nhà thống lý Pá Tra, phải sống kiếp "con trâu, con ngựa", bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần thì A Phủ trở thành người ở không công cho nhà thống lí chỉ vì đánh nhau với con quan. Hai con người đau khổ ấy gặp nhau, cảm thông, thấu hiểu cho nhau từ những giọt nước mắt và họ đã quyết định giải thoát cho nhau khỏi thân phận nô lệ.

Truyện kết thúc ở chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và vụt chạy theo A Phủ để giải phóng chính mình. Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở về với cuộc sống lầm lũi, cam chịu như trước kia. Trong một lần "thổi lửa hơ tay", Mị đã bắt gặp "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ. Chính dòng nước mắt ấy đã làm cho Mị bừng tình, nhận thức được quyền sống của mỗi con người, nhận thức được sự độc ác của giai cấp thống trị. Vậy nên Mị đã "rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây" cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ và thả A Phủ chạy thoát. Thế nhưng chỉ vài phút "đứng lặng trong bóng tối", Mị cũng "vụt chạy ra" theo A Phủ. Và rồi hai con người khốn khổ ấy "lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi". Sau này, hai người trở thành vợ chồng và dưới ánh sáng của cách mạng, họ cùng nhau chiến đấu bảo vệ quê hương.

Cái kết của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã cho chúng ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc giữa những con người khốn khổ, cho ta thấy được sức sống tiềm tàng của họ, nhận thực sâu sắc của họ về quyền sống, quyền được tự do và hạnh phúc cùng với đó là tinh thần đấu tranh với bọn địa chủ phong kiến. Nếu như trước đây, Mị sống "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", sống vô cảm, vô hồn thì giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức trong tâm hồn Mị ý thức về sự sống. Hành động cắt đứt dây trói giải thoát cho A Phủ của Mị cũng là sự giải thoát cho chính bản thân mình. Giọt nước mắt ấy đã đánh thức khao khát sống tự do, hạnh phúc của cô. Và rồi hai con người đau khổ của đất Hồng Ngài đã dẫn nhau "lẳng lặng" "lao chạy xuống dốc núi" trốn thoát khỏi những hủ tục phong kiến, những sự thống trị tàn bạo và dã man, đó là sự tự ý thức của họ về quyền sống, tự do của một con người.

Tuy hai nhà văn Kim Lân và Tô Hoài viết về hai đề tài khác nhau nhưng cách kết thúc trong hai truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt" lại có những điểm tương đồng. Đầu tiên đó là hai cái kết đều mở ra một tương lai mới tươi sáng và tự do cho người nông dân nghèo khổ. Cả hai nhà văn đều hướng những nhân vật của mình đến với ánh sáng của cách mạng với hy vọng chắc chắn rằng cách mạng sẽ giúp họ đổi đời. Tuy có nhiều điểm giống nhau nhưng Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ cũng có những điểm khác biệt rất rõ ràng. Nếu như Vợ nhặt là hình ảnh của những người nông dân phải sống trong đói nghèo, trong cái chết rình rập, họ thấy được tội ác của bọn phát xít thực dân để từ đó hình ảnh "lá cờ đỏ" cùng đoàn người đi "phá kho thóc Nhật" in đậm trong tâm trí họ, cho họ thấy được con đường thoát khỏi đói nghèo thì Vợ chồng A Phủ lại cho ta thấy sức sống tiềm tàng của những người nông dân, họ tự vùng lên để giải thoát cho chính mình.

Hai chi tiết, hai cái kết trong Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt là khác nhau nhưng ta thấy rõ được những tâm tư, những tình cảm, những giá trị nhân đạo mà cả Kim Lân và Tô Hoài đều hướng tới. Đó là lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc trước những số phận đau khổ bị đày đọa bởi đói nghèo, bởi giai cấp thống trị. Để từ đó hướng họ tới một tương lai tươi sáng hơn khi họ vùng lên dưới ánh sáng cách mạng.


Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved