viết bài phân tích nỗi niềm chinh phụ

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Anh Daii Ng
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

17/10/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
**Phân Tích Nỗi Niềm Chinh Phụ**

Chinh phụ là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam, được sáng tác bởi tác giả Đặng Trần Côn vào thế kỷ XVIII. Tác phẩm không chỉ mang giá trị nghệ thuật mà còn chứa đựng những nỗi niềm sâu sắc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua bài thơ, chúng ta có thể thấy rõ nỗi lòng của người chinh phụ, một hình ảnh tiêu biểu cho những người phụ nữ phải chịu đựng nỗi cô đơn, mất mát và khát khao tình yêu.

### 1. Nỗi cô đơn và nhớ thương

Mở đầu tác phẩm, người chinh phụ thể hiện nỗi cô đơn khi chồng ra trận. Cảm giác trống vắng, thiếu thốn tình cảm được thể hiện qua những hình ảnh ẩn dụ và biểu cảm sâu sắc. Những câu thơ miêu tả cảnh vật xung quanh như "trời mưa", "gió lạnh" không chỉ là bối cảnh mà còn là biểu tượng cho tâm trạng của nhân vật. Cô đơn giữa không gian tĩnh lặng khiến cho nỗi nhớ thương càng trở nên da diết.

### 2. Nỗi đau mất mát

Người chinh phụ không chỉ đơn thuần là nỗi nhớ chồng mà còn là nỗi đau mất mát. Hình ảnh người chinh phụ chờ đợi, mong mỏi tin tức từ chồng thể hiện sự bất lực và lo lắng. Những câu thơ thể hiện sự day dứt, lo âu về số phận của người chồng nơi chiến trường, từ đó phản ánh nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nơi mà họ không có quyền quyết định về cuộc sống của mình.

### 3. Khát khao tình yêu và hạnh phúc

Bên cạnh nỗi cô đơn và đau khổ, tác phẩm còn thể hiện khát khao mãnh liệt về tình yêu và hạnh phúc. Người chinh phụ không chỉ chờ đợi mà còn mong mỏi được đoàn tụ với người chồng yêu quý. Những ước vọng giản dị nhưng chân thành của cô thể hiện khát khao về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc bên người mình yêu. Điều này không chỉ phản ánh tâm tư của nhân vật mà còn là tiếng nói chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến, những người luôn phải chịu đựng và hy sinh vì gia đình, chồng con.

### 4. Tâm trạng bi thương

Cuối cùng, nỗi niềm chinh phụ còn thể hiện tâm trạng bi thương, sự bế tắc trong cuộc sống. Người chinh phụ không chỉ chờ đợi mà còn cảm thấy sự vô vọng khi không biết tương lai sẽ ra sao. Những câu thơ mang âm hưởng bi ai, thể hiện sự tuyệt vọng và nỗi đau không thể nguôi ngoai. Điều này không chỉ là nỗi niềm riêng của một người phụ nữ mà còn là tiếng nói của cả một thế hệ, một xã hội mà ở đó, phụ nữ thường phải chịu đựng nhiều thiệt thòi.

### Kết luận

Tác phẩm "Chinh phụ ngâm" không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một bức tranh sống động về nỗi niềm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua những dòng thơ, chúng ta cảm nhận được nỗi cô đơn, đau khổ và khát khao hạnh phúc của người chinh phụ. Tác phẩm đã khắc họa sâu sắc tâm tư của những người phụ nữ, đồng thời phản ánh những giá trị nhân văn cao đẹp trong văn học Việt Nam. Nỗi niềm chinh phụ không chỉ là nỗi niềm của một cá nhân mà còn là tiếng nói chung của những người phụ nữ trong lịch sử, những người đã sống và chịu đựng vì tình yêu và gia đình.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Nguynn Thuw

17/10/2024

Anh Daii Ng Trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li đã được nhiều tác giả quan tâm và phản ánh. Nguyễn Dữ có những dòng về sự ngóng trông của người vợ có chồng đi chinh chiến: Ngày qua tháng lại, thoát đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn ngoài vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không sao ngăn được. (Người con gái Nam Xương). Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã viết rất cảm động về sự chia tay đau buồn của đôi vợ chồng trẻ: Người lên ngựa, kẻ chia bào Dừng phong thu đã nhuốm màu quan san Người về chiếc bóng năm canh Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi Vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường. (Truyện Kiều) Nhưng có lẽ, chưa có nỗi sầu nào bi thương bằng nỗi sầu chia li của người chinh phụ được diễn tả trong Chinh phụ ngâm khúc. Chinh phụ ngâm khúc là một sáng tác văn chương xuất hiện vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Cả khúc ngâm là nỗi sầu nhớ thương vời vợi của người vợ có chồng ra trận. Nỗi sầu ấy đậm đặc ngay từ sau phút chia li: Chàng thì đi cõi xa mưa gió Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn Đoái trông theo đã cách ngăn Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh. Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại Bên Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngất một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Người chồng chia tay vợ lên đường chinh chiến (một cuộc chinh chiến vô nghĩa đối với họ), người vợ trở về một mình trong cô đơn, buồn tủi: Chàng thì đi cõi xa mưa gió Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn. Chao ôi, có sự chia tay nào xót thương hơn thế, có sự ngăn cách nào khắc nghiệt hơn thế. Cả một nỗi sầu chia li nặng nề đă phủ lên khí trời, sắc núi: Đoái trông theo đã cách ngăn Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh. Sự đoái trông của người vợ trẻ thật tội nghiệp. Nàng muốn níu giữ lại mà hình bóng người chồng cứ xa dần, để rồi chỉ còn lại là không gian xa thẳm. Giữa khung cảnh tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh, người vợ càng trở nên lẻ loi, cô quạnh. Sự chia li từ chỗ mới chỉ là cách ngăn, chẳng mấy chốc đã tăng lên nhanh chóng cả về không gian và tâm trạng: Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Từ câu Chàng thì đi cõi xa - Thiếp thì về buồng cũ đến Chốn Hàm Dương - Bến Tiêu Tương rồi lại Khói Tiêu Tương - Cây Hàm Dương, thì sự ngăn cách đã lên đến mấy trùng, như mấy trùng nỗi nhớ thương sầu muộn trong lòng người chinh phụ. Đối với bất kì ai, khi người thân của mình phải đi vào chốn cõi xa mưa gió (chốn binh đao khói lửa, nơi chiến trận thảm khốc), cũng đều có tâm trạng buồn đau thương nhớ. Ở người chinh phụ, nỗi buồn đau sầu muộn ấy còn thêm bội phần bởi cái tình chồng vợ đương độ đằm thắm gắn bó thiết tha (còn ngoảnh lại - hãy trông sang). Gắn bó mà không được gắn bó, gắn bó mà phải chia li. Thực là oái oăm và nghịch chướng. Thực là thương tâm và đau xót bởi cái cảnh người thì tận chốn Hàm Dương, kẻ thì mãi Bến Tiêu Tương. Cái tên Hàm Dương - Tiêu Tương (dù là được dùng theo bút pháp ước lệ của văn chương cổ điển) vẫn còn là những địa danh để người vợ có ý niệm về độ xa cách, nhưng đến bốn câu thơ tiếp theo thì cả ý niệm ấy cũng không còn, sự xa cách đã đến cực độ: Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Trong cảnh trời cao đất rộng, thăm thẳm mênh mông đến khôn cùng, nỗi sầu chia li của người vợ đã trở thành khối sầu, núi sầu chất chồng, đè nặng cả trái tim và tâm hồn nàng, để rồi sau đó sẽ theo nàng về chốn buồng cũ, đè nặng lên cuộc sống mòn mỏi ngóng trông đến hóa đá của nàng. Tình cảm vợ chồng và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi của người vợ trẻ thật mãnh liệt, nó làm lay động tâm thức bao thế hệ bạn đọc. Chỉ có tấm lòng đầy ắp tình yêu thương của nhà thơ mới có thể chia sẻ và diễn tả một cách xúc động đến thế.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Hùng senpai

17/10/2024

Anh Daii Ng

Trong xã hội phong kiến người phụ nữ phải chịu rất nhiều bất hạnh, khổ cực. Người phụ nữ lúc bấy giờ chưa được xã hội công nhận, họ không có quyền quyết định cuộc đời mình, phải phụ thuộc vào người chồng, người cha. Có rất nhiều tác phẩm nói về số phận người phụ nữ trong giai đoạn nay, trong đó phải kể đến đoạn trích Sau phút chia ly trích trong tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn.

Đoạn trích bày tỏ nỗi lòng sầu thương, nhớ nhung với sự mong mỏi, da diết của người vợ có chồng ra trận. Bài thơ với thể thơ cổ song thất lục bát. Toàn bài là nỗi nhớ thương ngày một tăng tiến, nâng cao của đôi vợ chồng trẻ, đặc biệt là người vợ - một phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Văn bản "Nỗi niềm chinh phụ" là đoạn trích sau khi người vợ ngậm ngùi tiễn chồng ra miền biên ải, nàng trở về đơn chiếc xót xa.

"Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh".

Rồi lại:

"Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai".

Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối giữa các câu thất và sử dụng điệp từ ngữ với những tính từ miêu tả độc đáo, đặc sắc đã toát lên nội dung chính là lên án chiến tranh, đặc biệt là khát vọng hòa bình, được yêu thương của người phụ nữ thời phong kiến.

"Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn".

Vì điều kiện đất nước xảy ra chiến tranh người chồng đã phải chia tay người vợ trẻ yêu quý của mình để ra chiến trường. Đó là cuộc chia li buồn và cô đơn của cả hai người. Trong "cõi xa mưa gió" của chàng ẩn chứa bao hiểm nguy, gian nan của hòn tên mũi đạn, của đời sống chốn sa trường. Trong nỗi lòng "buồn cũ chiếu chăn" của thiếp lại đau đớn bao đơn côi phiền muộn, bao khắc khoải đợi chờ. Hai cặp đối "Chàng thì" - "Thiếp thì" ẩn chứa bao chán nản, buồn phiền. Nghĩ đến nhau, họ chỉ còn biết:

"Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh".

<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>


Khi đã tiễn chồng ra trận, người vợ quay trở về chỉ biết chôn chặt nỗi buồn trong loàng. "Đoái" nghĩa là ngoảnh lại, ngoái lại nhưng dùng từ "đoái" còn hàm ẩn được cái đau đớn, mệt mỏi của tâm trạng người vợ. Nhưng càng đoái theo trông ngóng chỉ càng thấy cách xa nghìn trùng, giữa họ "đã cách ngăn" "mây biếc" "núi xanh" "tuôn màu" "trải ngàn" cách trở. Nỗi buồn của người phụ nữ như đã âm thầm lan thấm vào thiên nhiên cảnh vật. Đoàn Thị Điểm đã dùng cảnh vật thiên nhiên để nói lên tâm trạng người phụ nữ khi xa chồng:

"Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu".

Trong đoạn thơ tiếp, nỗi sầu chia li và lưu luyến chẳng muốn rời của đôi vợ chồng trẻ đã được thể hiện bằng những điển tích cổ, thủ pháp đối, phép điệp ngữ rất độc đáo.

Những địa danh Tiêu Tương, Hàm Dương tác giả mượn trong điển tích Trung Quốc gợi đến sự cách xa, chia lìa: "cách... mấy trùng". Phép đối vừa thể hiện tấm lòng sâu nặng dành cho nhau của đôi vợ chồng người chinh phụ vừa như thể hiện sự rời xa nhau từng giờ từng khắc của họ: "Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại" - "Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang", "Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương" - "Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương". Đặc biệt, phép điệp ngữ khiến những câu chữ như muốn đan quyện vào nhau chẳng muốn rời: Tiêu Tương - Tiêu Tương, Hàm Dương - Hàm Dương, thấy - thấy, xanh xanh - xanh, ngàn dâu - ngàn dâu. Nét đặc sắc đó đã thể hiện thành công tấm lòng lưu luyến chẳng muốn rời xa nhau của hai vợ chồng nàng. Thể thơ song thất lục bát thiết tha đã góp phần thể hiện tâm trạng u sầu nhung nhớ khôn nguôi trong lòng người chinh phụ. Nhưng dầu thế, đất trời như đang đẩy họ xa nhau hơn. Trong hai câu thơ:

<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>


"Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu"

Tác giả đã mượn ý câu thành ngữ "Thương hải tang điền" - biển rộng đã biến thành ruộng dâu tít tắp, ý chỉ những dâu bể cuộc đời. Chẳng những vậy, những sắc thái khác nhau của màu xanh được sử dụng trong hai câu thơ này cũng góp phần diễn tả sâu sắc nỗi lòng người chinh phụ. "Xanh xanh" là màu xanh nhẹ, xanh nhạt. "Xanh ngắt" lại là màu xanh đậm. Từ "xanh xanh" đến "xanh ngắt" là sự tăng tiến, màu xanh thể hiện sự chia li, li biệt; sự tăng tiến đó như thể hiện nỗi buồn ngày càng đậm nét, ngày càng quằn quại xót xa.

Đoạn trích đã sử dụng thể thơ song thất lục bát ngắn ngủi cùng khá nhiều những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng thành công, tác giả đã thể hiện sâu sắc nỗi lòng của người vợ "sau phút chia li" tiễn chồng đi chinh chiến. Đó là nỗi buồn tê tái, nỗi nhung nhớ vơi đầy, sự lưu luyến khôn nguôi... Và như thế, văn bản "Nỗi niềm chinh phụ" (trích "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm) đã thể hiện tinh thần nhân đạo rất nhân bản, nhân văn.

Người phụ nữ trong xã hội cũ phải chịu quá nhiều đắng cay tủi nhục, chỉ có người chồng là chỗ dựa tinh thần rồi cũng phải ra đi, chưa biết khi nà o mới gặp lại. Sự ác liệt của chiến tranh làm cho nỗi nhớ chồng của người phụ nữ càng nhân ên gấp bội, bởi giữa cái sông và cái chết của con người trong hoàn cảnh đó là quá mong manh.


Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Anh Daii Ng

"Chinh Phụ Ngâm" của Đặng Trần Côn là một tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam, thể hiện sâu sắc tâm trạng và nỗi niềm của người vợ lính trong thời kỳ chiến tranh. Bài thơ đã truyền tải những cảm xúc chân thực và sâu lắng qua từng câu chữ, làm lay động lòng người đọc.


Nỗi cô đơn và nhớ nhung của người chinh phụ được tác giả miêu tả một cách tinh tế và đầy cảm xúc. Khi người chồng ra trận, nàng chinh phụ phải đối mặt với những đêm dài đơn côi, chỉ có ánh trăng làm bạn. Hình ảnh ánh trăng đã được nhắc đến như một người bạn chia sẻ nỗi niềm cùng nàng, nhưng dường như trăng cũng trở nên vô tình khi không thể đem lại niềm an ủi. Nàng nhớ chồng da diết, nỗi nhớ ấy cứ dai dẳng, làm tim nàng thổn thức mỗi đêm.


Không chỉ dừng lại ở sự cô đơn, bài thơ còn lột tả rõ nét nỗi buồn và tuyệt vọng của người chinh phụ. Cuộc sống không còn ý nghĩa khi thiếu vắng bóng dáng người chồng. Tâm trạng buồn bã ấy được thể hiện qua những câu thơ đầy cảm xúc, mỗi câu mỗi chữ đều như xé lòng. Hình ảnh ngọn đèn chong đêm gợi lên sự hiu quạnh, mỏi mòn chờ đợi. Nỗi buồn không chỉ dừng lại ở tâm trạng, mà còn lan tỏa ra không gian, thời gian, làm cho mọi thứ xung quanh cũng trở nên u ám.


Thêm vào đó, sự lo âu và trông chờ của người chinh phụ cũng được Đặng Trần Côn khắc họa rõ nét. Nàng lo sợ cho an nguy của chồng nơi chiến trận, mỗi ngày trôi qua là một ngày dài đằng đẵng đầy lo âu. Những hy vọng mong manh về ngày đoàn tụ trở thành niềm an ủi duy nhất của nàng, nhưng lại càng làm cho nỗi nhớ thêm khắc khoải. Tâm trạng bất an ấy như một ngọn lửa âm ỉ, thiêu đốt lòng nàng từng ngày.


Ngôn từ của Đặng Trần Côn trong "Chinh Phụ Ngâm" vô cùng tinh tế và giàu cảm xúc. Những hình ảnh ẩn dụ, từ ngữ chọn lọc đã tạo nên một bức tranh sống động về nỗi niềm của người chinh phụ. Giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, mỗi câu thơ đều như một lời tâm sự đầy tâm tình, làm lay động lòng người đọc.


Tóm lại, qua "Chinh Phụ Ngâm," Đặng Trần Côn đã truyền tải thành công nỗi niềm chinh phụ với những cung bậc cảm xúc chân thực và sâu sắc. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc, mà còn là tiếng lòng của những người vợ lính trong thời kỳ chiến tranh, luôn khắc khoải và hy vọng về một ngày đoàn tụ.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved