Trong văn học trung đại Việt Nam có rất nhiều những tác giả nổi tiếng với các sáng tác viết về số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa như Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương,... Trong đó không thể không nhắc đến Đoàn Thị Điểm với tác phẩm "Người liệt nữ ở An Ấp". Tác phẩm đã khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng lại chịu số phận bi kịch. Bên cạnh đó cũng phải kể đến một tác phẩm khác là "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ. Hai tác phẩm đều xây dựng thành công hình ảnh người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng cuộc đời lại gặp nhiều sóng gió, bất hạnh.
Trước hết, cả hai tác phẩm đều xây dựng được hình ảnh người phụ nữ mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó là vẻ đẹp ngoại hình, tính cách và tâm hồn. Trước hết là vẻ đẹp ngoại hình. Ở "Chuyện người con gái Nam Xương", Vũ Nương là người con gái thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Còn ở "Người liệt nữ ở An Ấp", nàng là người con gái xinh đẹp, đoan trang, dịu dàng. Không chỉ vậy, họ còn là những người vợ hiền dâu thảo. Với Vũ Nương, nàng luôn giữ khuôn phép dù chồng đa nghi và phòng ngừa quá mức. Nàng luôn chăm lo cho gia đình nhỏ của mình. Còn với nàng tiểu thư ở An Ấp, nàng luôn yêu thương, kính trọng cha mẹ chồng, giúp đỡ việc nhà để ông bà yên lòng. Họ đều là những người mẹ mẫu mực. Vũ Nương luôn mong muốn con trai được sống trong tình yêu thương của cả cha lẫn mẹ nên đã chỉ cái bóng trên tường và nói rằng đó là cha Đản. Còn nàng tiểu thư thì sẵn sàng hi sinh bản thân vì gia đình chồng, quyết định chết cùng cha mẹ chồng. Có thể thấy, họ đều là những người phụ nữ đảm đang, tháo vát, giàu đức hy sinh.
Tuy nhiên, cuộc đời của họ lại gặp nhiều bất hạnh. Đầu tiên là với Vũ Nương. Nàng lấy Trương Sinh - một kẻ thất học, hay ghen tuông. Khi chồng đi lính, nàng ở nhà chăm sóc con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Nhưng khi Trương Sinh trở về, nghe lời đứa con ngây thơ mà đã nghi ngờ vợ thất tiết. Dù Vũ Nương đã ra sức giải thích nhưng chàng vẫn không tin. Cuối cùng, nàng chọn nhảy sông tự tử để chứng minh sự trong sạch của bản thân. Còn với nàng tiểu thư ở An Ấp, sau khi cha mẹ qua đời, nàng đã thay cha gánh vác gia đình. Tuy nhiên, người em chồng lại đem lòng yêu mến nàng rồi tìm mọi cách để ép buộc nàng làm vợ lẽ. Để bảo vệ danh dự cho gia đình, nàng đã lựa chọn quyên sinh. Cả hai người phụ nữ này đều chung số phận bất hạnh, bị dồn vào đường cùng và phải tìm đến cái chết để giải thoát cho bản thân.
Tiếp theo, cả hai tác phẩm đều lên án xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đã đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng. Đối với Vũ Nương, nàng là nạn nhân của chế độ nam quyền, mà ở đó người đàn ông có quyền được đa nghi, ghen tuông, thậm chí là hành hạ vợ con. Còn đối với nàng tiểu thư ở An Ấp, nàng là nạn nhân của hủ tục đa thê. Người em chồng đã lợi dụng hủ tục ấy để bắt ép nàng làm thiếp. Như vậy, cả hai tác phẩm đều lên án xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ.
Cuối cùng, cả hai tác phẩm đều sử dụng yếu tố kì ảo để thể hiện ước mơ, khát vọng của con người về một cuộc sống công bằng, bác ái hơn. Với "Chuyện người con gái Nam Xương", Vũ Nương được Linh Phi cứu và sống dưới thủy cung. Đến khi giặc rút lui, nàng được Trương Sinh lập đàn giải oan, được trở về sống với chồng con. Còn với "Người liệt nữ ở An Ấp", nàng được Diêm Vương giải oan, được trở về dương gian để gặp mặt cha mẹ lần cuối. Yếu tố kì ảo đã thể hiện ước mơ của con người về một thế giới công bằng, nơi mà người tốt sẽ được đền đáp xứng đáng, kẻ ác sẽ bị trừng trị. Đồng thời, nó cũng thể hiện niềm tin của con người vào sự bất tử của linh hồn và sự công bằng của luật trời.
Như vậy, cả hai tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" và "Người liệt nữ ở An Ấp" đều xây dựng thành công hình ảnh người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng lại chịu số phận bất hạnh. Qua đó, tác giả đã lên án xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện niềm tin vào sự công bằng của luật trời và ước mơ về một thế giới công bằng hơn.