phần:
câu 1: Đọc văn bản, xác định người kể chuyện xưng “tôi”- tác giả trần Đức Tiến. Như vậy, truyện được kể theo ngôi thứ nhất
câu 2: Từ ngữ, hình ảnh miêu tả vẻ bề ngoài của cái ấm trong văn bản: vòi ấm bị sứt một miếng nhỏ; ấm đã cũ; ấm bị khuyết tật; ấm bị sứt mẻ cả mình mẩy
câu 3: : Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là nghị luận.
: Theo tác giả, chiếc ấm sứt vòi đã trải qua quá trình sử dụng lâu dài, khoảng ba trăm năm. Tuy nhiên, điều đặc biệt là nó vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ ban đầu, không hề bị hư hỏng hay biến dạng. Điều này khiến cho người khách lạ tin rằng nó là một món đồ cổ quý giá, đáng giá hàng triệu đô la.
: Ông chủ quán nước không đồng ý bán cái ấm sứt vòi cho người khách lạ bởi vì ông nhận ra giá trị thực sự của chiếc ấm. Chiếc ấm không chỉ là một vật dụng thông thường, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, mang trong mình lịch sử và truyền thống của dân tộc. Ông chủ quán nước trân trọng chiếc ấm và không muốn bán nó đi, dù cho người khách lạ sẵn sàng trả giá rất cao. Việc làm đó cho thấy ông chủ quán nước là người có tình yêu thương và tôn trọng đối với những giá trị văn hóa truyền thống.
câu 4: Em đồng tình với suy nghĩ của chiếc ấm bởi lẽ mỗi người đều có ưu khuyết riêng, chỉ có bản thân chúng ta mới hiểu rõ nhất điều đó.
câu 5: I. Yêu cầu về kĩ năng: Học sinh biết cách làm bài nghị luận xã hội; vận dụng linh hoạt, hiệu quả các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; diễn đạt lưu loát; trình bày sạch đẹp; bố cục rõ ràng. Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo nội dung kiến thức.
II. Yêu cầu về kiến thức: Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận: Ý nghĩa của sự nỗ lực vươn lên trong cuộc sống.
2. Giải thích: Nỗ lực vươn lên là gì? Là sự cố gắng hết sức để vượt qua thử thách nhằm đạt mục đích đã đặt ra.
- Bàn luận: Vì sao con người cần nỗ lực vươn lên trong cuộc sống?
+ Cuộc sống luôn chứa đựng những khó khăn, thử thách đòi hỏi mỗi người cần có ý chí, nghị lực để vượt qua.
+ Khi nỗ lực vươn lên, chúng ta sẽ rèn luyện được bản lĩnh, ý chí kiên cường, sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn, thử thách.
+ Khi nỗ lực vươn lên, chúng ta sẽ khám phá ra được khả năng tiềm ẩn của bản thân, phát huy tối đa năng lực của mình.
+ Khi nỗ lực vươn lên, chúng ta sẽ nhận được sự tin tưởng, yêu mến, kính trọng của mọi người xung quanh.
- Mở rộng: Trong cuộc sống, có rất nhiều tấm gương sáng về ý chí, nghị lực vươn lên trong học tập, lao động,... tiêu biểu như thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký, Nick Vujicic,... Họ đã trở thành những tấm gương truyền cảm hứng cho biết bao thế hệ.
- Liên hệ: Bản thân em đã làm gì để nỗ lực vươn lên trong cuộc sống? Em sẽ tiếp tục duy trì những nỗ lực đó như thế nào trong tương lai?
III. Biểu điểm:
- Điểm Giỏi (5 - 6): Đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Kiến thức lí luận chắc, hiểu sâu về vấn đề, trình bày được các ý sáng tạo, phong phú. Phân tích sâu, kỹ, thuyết phục về các dẫn chứng. Diễn đạt lưu loát, mạch lạc, có điểm nhấn, toát lên được tình cảm của bản thân. Bố cục rõ ràng, hợp lí, văn phong trong sáng, mạch lạc.
- Điểm Khá (4): Đáp ứng khá các yêu cầu trên. Hiểu vấn đề, chọn được một số ý phù hợp. Nắm được một số kĩ năng phân tích dẫn chứng. Văn viết trơn tru, một số chỗ chưa đặc sắc. Còn vài lỗi nhỏ về diễn đạt, dùng từ, chính tả.
- Điểm Trung bình (3): Đáp ứng cơ bản các yêu cầu trên. Hiểu vấn đề nhưng ý chưa phong phú. Làm theo được khoảng 2/3 yêu cầu của đề. Còn lúng túng khi chọn dẫn chứng, phân tích. Hành văn tương đối, còn mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
- Điểm Yếu (1-2): Chưa hiểu rõ yêu cầu của đề, đáp ứng dưới 1/2 yêu cầu. Bài viết lủng củng, nhiều lỗi diễn đạt, dùng từ, chính tả, ngữ pháp.
- Điểm Kém (0): Lạc đề, không liên quan đến nội dung yêu cầu. Bài viết lơ mơ, nhiều lỗi nghiêm trọng về dùng từ, diễn đạt, chính tả, ngữ pháp.
phần:
câu 1: Nhà thơ Trần Đăng Khoa nổi tiếng với những vần thơ viết về trẻ em và tuổi thơ. Thơ của ông giàu chất suy tưởng, triết lí; nhiều hình ảnh thơ đặc sắc, bất ngờ, có tầm tư tưởng. Bài thơ Đợi mưa trên đảo sinh tồn được sáng tác năm 1982, in trong tập thơ "Bên cửa sổ máy bay" (1985). Đây là một trong những bài thơ hay nhất của Trần Đăng Khoa viết về biển đảo quê hương. Khổ thơ cuối đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tinh thần sáng lên trong gian khó của những người lính đảo.
Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: tháng 4 năm 1981, Trần Đăng Khoa cùng đoàn văn nghệ sĩ thăm một số quần đảo ở Vịnh Thái Lan. Chuyến đi kéo dài gần hai tháng, tác giả đã trải qua nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, chứng kiến cuộc sống gian khổ của bộ đội và nhân dân ta trên các đảo. Bài thơ là bức tranh sinh động về cuộc sống của người lính nơi hải đảo xa xôi, khắc họa những khó khăn, thiếu thốn và sự lạc quan, yêu đời của họ. Đặc biệt, khổ thơ cuối cùng đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tinh thần sáng lên trong gian khó ấy.
Những câu thơ mở đầu miêu tả khung cảnh khắc nghiệt của đảo Sinh Tồn: nắng nóng như thiêu đốt, cát bỏng giẫy, gió cháy khô, cây cối trơ trụi, nước ngọt khan hiếm,... Cuộc sống của người lính càng thêm vất vả, gian lao. Nhưng họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Họ chờ đợi mưa như chờ đợi một phép màu, một sự cứu rỗi.
"Ôi, ước gì được thấy mưa rơi!
Mặt chúng tôi ngửa lên như đất
Những màu mây sẽ thôi không héo quắt
Đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên
Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền
Chúng tôi không cạo đầu, để tóc lên như cỏ
Rồi kháo nhau bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt."
Hình ảnh "mưa" xuất hiện xuyên suốt bài thơ, là khát vọng cháy bỏng của người lính đảo. Họ mong ngóng mưa như mong ngóng sự sống, mong ngóng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Khi mưa đến, họ sẽ được tắm mát, được uống nước ngọt, được trồng cây, nuôi dưỡng sự sống. Niềm vui sướng của họ được thể hiện qua những so sánh độc đáo: "Mặt chúng tôi ngửa lên như đất/ Những màu mây sẽ thôi không héo quắt/ Đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên/ Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền...". Những hình ảnh ẩn dụ này đã góp phần làm tăng thêm sức gợi hình, gợi cảm cho bài thơ.
Từ láy "rập rình", "lấp loáng" kết hợp với biện pháp tu từ so sánh đã tạo nên âm thanh và ánh sáng lung linh, huyền ảo, gợi lên niềm vui sướng của người lính khi đón nhận cơn mưa. Cơn mưa không chỉ mang lại niềm vui mà còn mang lại sức mạnh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách.
Khổ thơ cuối khép lại bằng hình ảnh "bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt". Đó là bữa tiệc của niềm vui, của sự sống, của niềm tin và hi vọng. Bữa tiệc ấy là món quà quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho người lính đảo. Qua đó, tác giả muốn khẳng định rằng, dù cuộc sống có khó khăn, gian khổ đến đâu thì người lính vẫn luôn lạc quan, yêu đời, giữ vững tinh thần chiến đấu, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Có thể nói, khổ thơ cuối cùng của bài thơ "Đợi mưa trên đảo sinh tồn" đã thể hiện một cách sâu sắc vẻ đẹp tinh thần sáng lên trong gian khó của những người lính đảo. Họ là những người con ưu tú của đất nước, sẵn sàng hy sinh tuổi xuân, xương máu để bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Tác giả Trần Đăng Khoa đã thể hiện tài năng và tình cảm của mình qua bài thơ này. Bằng giọng thơ hồn nhiên, dí dỏm, ông đã khắc họa thành công hình ảnh người lính đảo với tâm hồn lạc quan, yêu đời, đầy bản lĩnh và nghị lực. Bài thơ cũng là lời ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất nước và con người Việt Nam.
câu 2: Trong thời đại ngày nay, tuổi trẻ chúng ta sống trong không khí hòa bình và no ấm. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức khác nhau. Điều quan trọng là chúng ta cần nhận thức rõ những cơ hội và thách thức này để phát huy mặt mạnh và hạn chế mặt yếu, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trước hết, tuổi trẻ hiện nay đang đứng trước vô vàn cơ hội. Chúng ta được thừa hưởng những thành tựu của thế hệ đi trước và có khả năng biến đổi tương lai của mình. Một trong những cơ hội lớn nhất là cơ hội học tập. Hiện nay, hệ thống giáo dục đã trở nên mở rộng và bình đẳng hơn bao giờ hết. Số lượng sinh viên đại học và cao đẳng đã tăng lên đáng kể, cung cấp cho chúng ta một môi trường học tập phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó, nhu cầu lao động trong các ngành công nghệ cao, dịch vụ khoa học kỹ thuật cũng rất lớn, mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội nghề nghiệp.
Ngoài ra, còn có cơ hội kinh doanh. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, môi trường pháp lý và chính sách khuyến khích đầu tư đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của thanh niên. Thị trường chứng khoán cũng đang trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn, giúp thanh niên có thể tham gia vào quá trình sản xuất và kinh doanh. Hơn nữa, cơ hội giao lưu quốc tế cũng đang mở rộng, nhờ vào sự hợp tác song phương và đa phương giữa Việt Nam và thế giới. Các chương trình trao đổi sinh viên, tình nguyện viên đã tạo điều kiện cho thanh niên tiếp xúc với những tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, tuổi trẻ hiện nay cũng đang đối mặt với nhiều thách thức. Một trong những thách thức lớn nhất là sự ảnh hưởng của xu hướng tiêu cực của toàn cầu hóa. Sự cạnh tranh gay gắt trên thương trường, cùng với nguy cơ tụt hậu về khoa học công nghệ, đang đe dọa tương lai của chúng ta. Nền kinh tế thị trường cũng gây ra sự phân hóa giàu nghèo, khiến cho một số thanh niên rơi vào lối sống thực dụng, đua đòi, lãng phí, chạy theo đồng tiền. Những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đang đẩy lùi những giá trị truyền thống tốt đẹp, khiến cho một số thanh niên trở nên chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, thiếu niềm tin, mất định hướng, sa vào các tệ nạn xã hội.
Để vượt qua những thách thức này và tận dụng tối đa những cơ hội, chúng ta cần có sự nỗ lực không ngừng. Trước tiên, Đảng và Nhà nước cần tạo ra một môi trường lành mạnh, công bằng, dân chủ, khuyến khích tài năng và sáng tạo của thanh niên. Đồng thời, thanh niên cũng cần tự rèn luyện bản lĩnh, nâng cao trí tuệ, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức, sẵn sàng đón nhận mọi khó khăn, thử thách.
Trong bối cảnh hiện nay, mỗi thanh niên cần xác định cho mình một mục đích, động cơ học tập đúng đắn, không ngừng trau dồi kiến thức, kĩ năng, đạo đức, để trở thành những người có ích cho xã hội. Chỉ khi chúng ta tự hoàn thiện mình, chúng ta mới có thể đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước.