Nhắc đến Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc Việt Nam, người ta sẽ nhắc ngay đến Truyện Kiều, một "đại kiệt tác" của văn học Việt Nam. Tác phẩm đã khắc họa chân thực xã hội phong kiến thối nát, những bất công, khổ cực mà con người, nhất là người phụ nữ phải chịu đựng. Đồng thời, truyện cũng thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả: cảm thông sâu sắc với cuộc đời người phụ nữ, trân trọng vẻ đẹp của họ đồng thời lên án tội ác của các thế lực đen tối trong xã hội cũ. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc". Sau khi bán mình chuộc cha, Kiều bị Tú Bà đưa ra sống ở lầu Ngưng Bích. Kiều xót xa cho thân phận mình và nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ và người thân.
Đoạn thơ có thể chia làm ba phần: Sáu câu đầu là tâm trạng nhớ nhung Kim Trọng và gia đình; mười câu tiếp là tâm trạng khi nhìn các cảnh vật; tám câu cuối là tâm trạng buồn lo khi suy nghĩ về thân phận hiện tại.
Trước hết, sáu câu thơ đầu là tâm trạng nhớ nhung Kim Trọng và gia đình:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm."
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, đó là những tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất của mỗi con người. Ở đây, Nguyễn Du đã phát hiện ra một nét tâm lí rất thực, rất người của Thuý Kiều. Kiều đã nhớ về Kim Trọng - chàng trai mà nàng dành tình cảm tha thiết. Kiều nhớ tới đêm thề nguyền, cùng uống rượu hồng hẹn ước. Nàng còn nhớ cả những lần gửi chiếc thoa, kỉ vật tình yêu, mong ngóng ngày đoàn tụ. Nhưng giờ đây, tất cả chỉ còn là quá khứ. Hiện tại, Kiều đang vô cùng cô đơn, xót xa vì lời thề nguyền đã bị phá vỡ. Nàng tự vấn "tấm son gột rửa bao giờ cho phai", nghĩa là nàng tự hỏi tấm lòng son sắt, thuỷ chung với Kim Trọng biết bao giờ gột rửa được. Cụm từ "bên trời góc bể bơ vơ" đã thể hiện nỗi niềm cô đơn, lạc lõng của Kiều nơi đất khách quê người. Và rồi, nàng lại nhớ về cha mẹ - người tuổi già sức yếu, không biết ai là người chăm sóc, phụng dưỡng. Nàng xót xa khi cha mẹ vẫn sớm hôm tựa cửa ngóng tin con. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", điển cố "sân lai", "gốc tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng lo sợ cha mẹ già yếu không ai chăm sóc. Như vậy, ở sáu câu thơ đầu, Nguyễn Du đã thể hiện thành công tâm trạng nhớ nhung Kim Trọng và cha mẹ của Kiều. Đó là nỗi nhớ thương khôn nguôi, tấm lòng son sắt, thuỷ chung của Kiều.
Sau khi nhớ thương người yêu, cha mẹ, Kiều lại xót xa khi nghĩ về thân phận mình:
"Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Điệp ngữ "buồn trông" xuất hiện bốn lần ở đầu mỗi khổ thơ tạo nên điệp khúc buồn thương cho đoạn thơ. Đây là điệp khúc tâm trạng, điệp khúc thiên nhiên. Mỗi lần lặp lại là một cảnh sắc, nhưng tất cả đều nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trữ tình. Cảnh nào cũng gợi buồn bởi nó đều được nhìn qua đôi mắt của Kiều. Mỗi cảnh còn chứa đựng một ý nghĩa khác nhau. Nhìn ra biển khơi mênh mông trong buổi chiều tà, Kiều thấy mình bơ vơ không lối thoát. Cánh hoa nhỏ bé, mỏng manh bị vùi dập không biết sẽ đi đâu về đâu. Nó gợi Kiều liên tưởng tới thân phận lẻ loi, chìm nổi, bấp bênh của mình. Nhìn vào trong đất liền, thấy cảnh cỏ rầu rầu nối tiếp nhau, Kiều nghĩ tới cảnh mình tàn phai nhan sắc, cũng tàn phai dần tinh thần, tài năng. Màu xanh nhàn nhạt trải dài không có tương lai, cũng giống như cuộc sống vô vọng của Kiều. Nhìn ra xa, Kiều thấy ngọn gió cuốn mặt duềnh ùm ùm tiếng sóng vỗ. Âm thanh báo hiệu giông bão, cũng là biểu hiện của tai ương sắp ập đến. Tám câu thơ cuối là bức tranh thiên nhiên nhưng đồng thời cũng là bức tranh tâm trạng. Bởi lẽ, mỗi cảnh thiên nhiên đều mang một nỗi buồn, phản chiếu một nỗi buồn lớn, đó là nỗi buồn của kiếp người lưu lạc.
Như vậy, đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương của Kiều và tài năng nghệ thuật tuyệt vời của Nguyễn Du. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đã khiến cho từng đợt sóng cảm xúc trong tâm hồn Kiều và trong lòng độc giả cứ lan toả, lan toả mãi.