Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam ta, ngoài là một nhà chính trị tài ba, Người còn là một nhà thơ xuất sắc của nền văn học nước nhà. Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Bác đã sáng tác rất nhiều tác phẩm có giá trị nhằm cổ vũ tinh thần chiến đấu và lao động sản xuất của nhân dân ta. Một trong số đó phải kể đến là bài thơ "Nguyên tiêu" (hay còn gọi là "Rằm tháng giêng"). Tác phẩm được Bác viết sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, cùng chính phủ chiến khu trở về Hà Nội. Giữa hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề và những hoạt động bộn bề, nhưng Hồ Chủ tịch vẫn giữ gìn nếp sống văn hoá truyền thống của dân tộc, rất coi trọng Tết cổ truyền của dân tộc. Bài thơ đã khắc hoạ phong thái ung dung, thanh thản và tình yêu thiên nhiên tha thiết của Người.
Mở đầu bài thơ là cảnh tuyệt vời trong đêm nguyên tiêu:
"Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên"
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Hình ảnh trăng trong thơ Bác thật đẹp. Nhưng không chỉ đẹp mà nó còn mang đậm bản sắc dân tộc. Chúng ta có thể thấy rõ cái chất thép trong những câu thơ mang hào khí Đông A ấy. Tuy trong hoàn cảnh tù đày nhưng trái tim của người cộng sản vẫn rất tự hào về truyền thống đánh giặc ngoại xâm của cha ông:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư"
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở)
Giữa chốn ngục tù, Bác nhớ về quê hương, khao khát sự tự do. Và trong hoàn cảnh ấy, Người tìm đến trăng, tìm đến rượu để giải sầu. Đọng lại trong tâm hồn Bác lúc này chính là vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất nước:
"Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên"
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
Từ "xuân" thứ nhất mang ý nghĩa tượng trưng cho sự sống, tuổi trẻ và sự trỗi dậy. Từ "xuân" thứ hai chỉ sự vật cụ thể là sông, là nước. Từ "xuân" thứ ba chỉ trời đất. Ba từ "xuân" kết hợp với nhau vẽ lên khung cảnh mùa xuân mênh mông, bát ngát. Dòng sông mùa xuân chảy trên vùng đất trời rộng lớn, sông và bầu trời hòa quyện vào nhau, khiến cho cảnh vật càng trở nên tươi đẹp, sinh động. Không gian mở ra hết chiều rộng, chiều dài và chiều cao làm nên bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp. Bức tranh ấy không chỉ có yếu tố tạo hình mà còn có cả âm thanh, đó chính là tiếng cựa mình của đất nước, tiếng vang ròn của mùa xuân.
Trong hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh con người đã xuất hiện với tư thế và vị thế hoàn toàn khác biệt:
"Yên ba thâm sứ đàm quân sự"
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
Người chiến sĩ cách mạng không còn cô đơn buồn bã nữa mà giờ đây Người đang cùng với những người cộng sự thảo luận quân tình quân sự để có đường lối chỉ đạo đúng đắn cho cuộc khởi nghĩa. Hai câu thơ trước không thấy bóng dáng của con người, chỉ có thiên nhiên đẹp đẽ vui vẻ. Hai câu thơ sau đó, hình ảnh con người xuất hiện trong tư thế uy nghi làm chủ trận chiến. Hình ảnh con người đã giúp cho bức tranh trở nên ấm áp hơn. Con người biết vượt lên trên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn cảnh. Đó chính là tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.
Kết thúc bài thơ là hình ảnh ánh trăng trong ngày rằm tháng giêng:
"Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền"
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Ánh trăng đêm rằm thì đâu cũng sáng vời vợi. Hình ảnh ánh trăng "dòng sông trăng" hay "nguyệt mãn thuyền" đều gợi lên vẻ đẹp huyền ảo của trăng. Có thể nói, Bác đã thả hồn mình vào vầng trăng trên dòng sông, để tâm hồn mình hoà cùng với thiên nhiên.
Bài thơ "Nguyên tiêu" là một tác phẩm đặc sắc. Với ngôn ngữ giản dị mà hàm súc, giàu hình ảnh, bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh ngày xuân tuyệt đẹp và có chiều sâu trong thơ ca Việt Nam. Qua đó, chúng ta thấy được một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, một trái tim yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước và một tinh thần lạc quan vào tương lai của Bác.