Hồ Xuân Hương (1772-1822) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, cha bà là Hồ Phi Diễn, từng đỗ cả tam trường nhưng chỉ làm đến chức Hành khiển nên cuộc sống khá khó khăn. Chính điều này đã ảnh hưởng sâu sắc tới thơ ca của bà với nhiều tâm sự về kiếp người tài hoa bạc mệnh đầy ngang trái, éo le. Cuộc đời Hồ Xuân Hương lận đận, nhiều éo le ngang trái. Hai lần lấy chồng nhưng đều làm lẽ và đều chết trẻ. Sau hai lần chôn vất, bà sống một mình, một thân đàn bà giữa thời chiến tranh loạn lạc là điều không hề đơn giản. Sống giữa thời chiến tranh loạn lạc, xã hội phong kiến thối nát, bà phải chịu nhiều nỗi buồn, tủi nhục, đắng cay. Bà thường mượn rượu giải sầu, du ngoạn khắp nơi để thỏa chí nhưng vẫn không sao thoát khỏi nỗi đau về thân phận. Vì thế mà trong thơ của bà luôn ẩn chứa những nỗi niềm sâu kín, những khát khao cháy bỏng của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Thơ Hồ Xuân Hương mang đậm dấu ấn cá nhân, thể hiện rõ nét cái tôi của tác giả. Đó là một người phụ nữ tài năng, bản lĩnh, dám khẳng định cái tôi của mình, dám nói lên tiếng nói của bản thân, dám đấu tranh chống lại những bất công, ngang trái trong xã hội cũ. Bên cạnh đó, thơ Hồ Xuân Hương còn mang đậm tính nhân đạo sâu sắc. Bà luôn bênh vực cho những người phụ nữ, những người dân nghèo khổ, bất hạnh. Bà cũng lên án mạnh mẽ chế độ phong kiến thối nát, bất công. Với những đóng góp to lớn của mình, Hồ Xuân Hương được coi là "bà chúa thơ Nôm", là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam trung đại.