Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm "Truyện Kiều" - kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam, ngoài giá trị nội dung sâu sắc "Thúy Kiều" còn rất thành công về nghê thuật. Với nghệ thuật tả người qua bút pháp ước lệ tương đương, tả cảnh thiên nhiên qua bút pháp tả và gợi thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng rất xuất sắc. Tiêu biểu là đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" và điển hình là tám câu thơ sau đã khắc họa một cách xúc động về nỗi nhớ người yêu, nhớ bố mẹ của Thúy Kiều, qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của chính nhân vật:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mẩy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm"
Sau khi biết mình bị lừa vào trốn lầu xanh Kiều uất ức kháng cự quyết liệt, nhưng không được, nàng định tự vẫn để giữ tiết hạnh. Tú Bà vì sợ mất vốn lẫn lãi nên vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới tàn bạo hơn, đê tiện hơn. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc".
Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo của Thuý Kiều.
Đầu tiên là nỗi nhớ thương da diết của Kiều dành cho người yêu, nàng nhớ tới Kim Trọng trước nhất bởi lẽ:
"Đêm trường ngủ nạp canh tàn
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà ai chưa
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm"
Nhớ người yêu nỗi nhớ thật mơ hồ mà cụ thể. Mơ hồ vì nàng chỉ "Tưởng" tới Kim Trọng. Còn cụ thể là nàng tưởng tới cảnh trăng nước đêm nào nàng cùng Kim Trọng thẹn thùng hẹn ước, nàng tưởng tới cái nhìn trách móc của chàng khi nàng thất hứa, nàng tưởng tới sự lo lắng bồn chồn của chàng khi nàng đi đâu chưa thấy về. Đặc biệt nàng còn nhớ tới lời hẹn ước của mình với Kim Trọng là chiếc quạt hồng và vò rượu đào mà Kiều đã trao cho Kim Trọng trong đêm uống rượu, xem hoa, cùng nhau thề nguyền. Lời hẹn ước thiêng liêng vừa mới đây thôi, nay Kiều đã phải cách xa Kim Trọng, bán mình chuộc cha, nàng đau đớn cảm thấy mình đã phụ tình yêu của Kim Trọng. Nàng tự coi mình là người phụ bạc, tự dằn vặt khổ đau vì lỗi lầm ấy. Nhớ tới Kim Trọng, Kiều xót xa ân hận, nàng ngỡ mình là người phụ bạc lừa dối chàng. Nỗi đau đớn ấy cứ dày xé trái tim nàng.
Không chỉ nhớ thương Kim Trọng, Kiều còn nhớ tới cha mẹ, nàng xót xa khi cha mẹ già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con, nhưng họ nào biết con mình đã lưu lạc nơi chân trời góc bể, xa rời quê hương gia đình. Nàng thương cha mẹ ngày ngày mong ngóng con, rồi khi cha mẹ già yếu không ai phụng dưỡng chăm nom. Ở đây, Nguyễn Du đã vận dụng thành ngữ, cách nói dân gian rất điêu luyện "quạt nồng ấp lạnh", "cách mấy nắng mưa" vừa nói được thời gian xa cách, vừa nói đến sự trăn trở lo lắng của Kiều. Nàng tưởng tượng khung cảnh cha mẹ đang ngồi tựa cửa ngóng tin con, trời mùa hè nóng nực, bà mẹ thì quạt cho mát, nhưng thực ra đó chính là nỗi lòng thổn thức mong mỏi tin con của mẹ cha. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu, tiết trời rét mướt mà chẳng có ai chăm nom, phụng dưỡng. Cụm từ "Cách mấy nắng mưa" chỉ được sử dụng trong ca dao, dân ca hay trong những sáng tác văn chương gần gũi với quần chúng. Ở trong văn học xưa nay, hiếm có sự cách tân nghệ thuật như thế này của Nguyễn Du. Qua đó ta thấy được tấm lòng hiếu thảo, sự tận tụy và tình yêu thiết tha của Kiều với cha mẹ.
Như vậy, chỉ bằng vài nét chấm phá, tác giả đã khắc họa một cách tinh tế và sâu sắc nỗi nhớ thương của Kiều về người yêu, về cha mẹ. Qua đó, ta càng thấy rõ tấm lòng vị tha, đức hi sinh và tình cảm cao đẹp của Kiều. Đồng thời, ta cũng thấy được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật tài tình của Nguyễn Du. Nhà thơ đã nhập thân vào nhân vật để nói lên những nỗi niềm tâm sự của Kiều. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm, hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng đã góp phần tạo nên sự thành công trong đoạn trích.
Với tám câu thơ lục bát giàu chất tạo hình, Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Đó là bức tranh đa dạng với những gam màu xám lạnh. Tất cả đều gợi buồn, sầu nặng nề. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn nàng, ánh lên vẻ đẹp của một tâm hồn thủy chung, hiếu thảo hiếm có.
Bằng ngòi bút tuyệt vời miêu tả nội tâm nhân vật, Nguyễn Du đã khắc họa thành công và lay động người đọc về nỗi nhớ người yêu, nhớ bố mẹ của Thúy Kiều, qua đó giúp ta hiểu thêm về tấm lòng vị tha cũng như đức hi sinh của nàng Kiều. Thật đáng trân trọng!