Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có "con mắt nhìn thấu sáu cõi" và "tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời". Bài viết này bàn về cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông.
Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca.
Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thìa biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày... những con người "dưới đáy" xã hội. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du - nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
Mồ côi cha mẹ từ lúc còn nằm nôi, Nguyễn Du phải sống nhờ nhà người anh khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường rồi làm một chức quan võ ở Thái Nguyên. Năm 1789 nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi tiếp đó về sống ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đây là thời kỳ chông chênh bế tắc, đói nghèo túng quẫn của nhà thơ. Từ năm 1802, Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn. Trong 10 năm cuối đời, ông lần lượt đảm đương các chức vụ quan trọng do vua nhà Nguyễn bổ nhiệm như Tri huyện Phù Dung, sau đó là Tri phủ Thường Tín. Năm 1813 ông được thăng chức Đông Các điện học sĩ. Năm 1820, ông được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc.
Chỉ hơn một năm sau khi sang Trung Quốc, Nguyễn Du qua đời ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820) giữa lúc sự nghiệp đang đà phát triển.
Nguyễn Du nổi tiếng trước hết bởi tài thơ. Các sáng tác thơ chữ Hán của Nguyễn Du gồm ba tập: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài. Các sáng tác thơ chữ Nôm tiêu biểu là Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, vè Thác lèn trai phường nón.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà điêu luyện, bình dị mà trang nhã, cổ điển mà hiện đại. Các tác phẩm đều là những bức tranh phong cảnh tuyệt vời, những nghiên cứu xã hội sâu sắc, những suy ngẫm về cuộc đời đầy tính nhân bản.
Các sáng tác thơ chữ Nôm của Nguyễn Du đều hướng về con người, đặc biệt là những người nhỏ bé, bất hạnh,... Ông dành tình cảm xót thương cho những thân phận con người bị vùi dập, chà đạp. Đó là số phận người phụ nữ vừa xinh đẹp vừa tài năng trong thơ chữ Nôm của Nguyễn Du. Họ đều là nạn nhân của xã hội phong kiến, họ muốn vượt lên trên nhưng đều rơi vào bi kịch.
Truyện Kiều phản ánh xã hội đầy bất công, tàn bạo và đề cao giá trị con người với triết lí trân trọng và yêu thương. Tác phẩm đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật của thể loại truyện Nôm với nội dung nhân đạo sâu sắc.
Với những cống hiến to lớn, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào của dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới, là tượng đài nghệ thuật xuất sắc của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi và sự nghiệp của ông mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân ta.