câu 1. đêm xuống. con thuyền neo lại giữa sông. ngọn lửa bếp trên mui thuyền hắt một vầng sáng dịu dàng xuống mặt nước. người trong xóm trại trên bến chùa không biết con thuyền này từ đâu đến neo lại trên khúc sông này đã hơn một tháng nay. hàng ngày những người trong gia đình trên chiếc thuyền ấy làm một công việc là lấy cát rồi bán cho các gia đình trên thị trấn nhỏ bên kia sông đang thi nhau xây nhà. hơn một tháng không ai thấy những người trên chiếc thuyền lên bờ. họ đội cát bằng những cái thúng to, đi nhún nhảy trên tấm ván. khi đến đầu tấm ván gối lên bờ, họ đổ cát xuống bãi cỏ cho người mua, bàn chân không hề chạm mặt đất. hàng xóm của họ là những chiếc thuyền đánh cá, thuyền chở hàng thuê v.v... chủ chiếc thuyền cát là một ông già ngoài sáu mươi tuổi, mái tóc dài được búi gọn trên đâù, chòm râu bạc xòa che gần kín vồng ngực gồ lên như tảng đá. đôi vai ông u lên, đỏ sậm và rạn như vai trâu caỳ. cơ thể ông đanh lại như đá tạc, nhưng đôi mắt thì khác, đôi mắt lúc nào cũng u buồn, ngơ ngác như vừa đánh mất một điều gì. ông lư (ông già chủ thuyền) ngồi im lặng trên sàn gỗ của mui thuyền. bên cạnh ông là một quả bầu khô lớn đựng rượu, một thứ rượu do ông cất lấy ngâm với củ cỏ gâú, loại củ già đen bóng như sừng. trước ông là một đĩa cá sông nướng và một chiếc rổ con đựng những con trùng trục đã hấp chín với gừng khô. chiều nào ông cũng ngồi uống rượu như thế cho tới khuya và không hề động đến một hạt cơm. chỉ những đêm mưa bão ông mới chịu ở trong chiếc nhà thuyền. [...] ngày mai cả nhà ông sẽ đi bãi yên. đó là đoạn sông rộng và êm chạy ven chân một dãy núi đá vôi. ở dưới đáy khúc sông đó là mộ người vợ bất hạnh của ông. thế là đã hơn mười năm rôì. con sông đổ biết bao nhiêu nước ra biển cũng như ông có biết bao thay đổi trên đời. vào mùa hè cách đây mười hai năm. đó là mùa hè đầy bệnh tật và đói kém. dọc hai bên bờ sông ông qua, ngày nào cũng vọng tiếng kèn đám ma thảm thiết và thấp thoáng sau những lùm tre gầy nhằng, úa vàng là những chiếc cờ tang vật vờ bay. rồi vợ ông cũng trở thành nạn nhân của mùa hè ghê rợn âý. bà để lại cho ông ba đứa con. đứa con gái hồi đó mới hơn bốn tuổi. trong suốt ba ngày ròng rã, ông ngồi trên mui thuyền trước xác vợ. hai đứa con trai ông vừa chèo thuyền vừa dỗ đứa em gái của mình ốm yếu khóc ngặt nghẽo suốt ngaỳ. ông cập thuyền vào những đám dân cư hai bên sông để xin được chôn cất vợ. nhưng không một nơi nào chấp thuận. họ xua đuổi gia đình ông như xua đuổi một thứ ma quỷ chuyên đi gieo rắc cái chết. họ sợ bị lây bệnh dịch. ông không còn biết về đâu. ông sinh ra trên chiếc thuyền naỳ. ông chỉ biết con thuyền và dòng sông. đến tối ngày thứ ba, ông ôm xác vợ khóc. giữa dòng sông mênh mang, con thuyền vật vờ trôi với một ngọn đèn dầu héo hắt trên mui thuyền. cuối cùng chỉ còn lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi số phận. ông chôn vợ xuống đáy dòng sông ở chỗ khúc sông rộng và êm nhất. ông cùng hai đứa con dùng gàu sắt thường dùng để lấy cát đào một cái hố dưới đáy sông và để người đàn bà yên nghỉ ở đó. họ chở một thuyền đá xanh xếp lên thành chiếc mộ để tránh nước cuốn đi. đêm đó ông xõa tóc, đốt hương lễ thần sông. ông đổ hết một bầu rượu lớn xuống sông và nguyền rằng: tất cả những người trong gia đình ông sẽ không bao giờ đặt chân lên mặt đất. họ sẽ sống một cuộc đời trên sông. hằng năm cứ đến ngày giỗ vợ, dù công việc bận thế nào gia đình ông cũng nghỉ. ông sắm sửa lễ vật và khi mặt trời khuất núi thì cả gia đình chèo thuyền đến bãi yên. ông xõa tóc và mặc aó, đây là ngày duy nhất trong năm ông mặc áo trừ những ngày đông rét mướt. sau khi làm lễ ông cùng hai người con trai lặn xuống đáy sông sửa sang lại ngôi mộ. ít năm sau người con trai cả lấy vợ. cô dâu là con gái một bạn thuyền của ông. ngày cưới con, ông cho đứa con trai thứ hai bơi chiếc mủng nhỏ đi suốt mấy ngày dọc một bãi sông mời bạn thuyền. đám cưới được tổ chức ở bãi yên với hàng chục chiếc thuyền các loại kết lại thành một chiếc bè lớn. (trích "mùa hoa cải bên sông", nguyễn quang thiều, nxb hội nhà văn, 2012)
câu 2. đêm xuống. con thuyền neo lại giữa sông. ngọn lửa bếp trên mui thuyền hắt một vầng sáng dịu dàng xuống mặt nước. người trong xóm trại trên bến chùa không biết con thuyền này từ đâu đến neo lại trên khúc sông này đã hơn một tháng nay. hàng ngày những người trong gia đình trên chiếc thuyền ấy làm một công việc là lấy cát rồi bán cho các gia đình trên thị trấn nhỏ bên kia sông đang thi nhau xây nhà. hơn một tháng không ai thấy những người trên chiếc thuyền lên bờ. họ đội cát bằng những cái thúng to, đi nhún nhảy trên tấm ván. khi đến đầu tấm ván gối lên bờ, họ đổ cát xuống bãi cỏ cho người mua, bàn chân không hề chạm mặt đất. hàng xóm của họ là những chiếc thuyền đánh cá, thuyền chở hàng thuê v.v... chủ chiếc thuyền cát là một ông già ngoài sáu mươi tuổi, mái tóc dài được búi gọn trên đâù, chòm râu bạc xòa che gần kín vồng ngực gồ lên như tảng đá. ðôi vai ông u lên, đỏ sậm và rạn như vai trâu caỳ. cơ thể ông đanh lại như đá tạc, nhưng đôi mắt thì khác, đôi mắt lúc nào cũng u buồn, ngơ ngác như vừa đánh mất một điều gì. ông lư (ông già chủ thuyền) ngồi im lặng trên sàn gỗ của mui thuyền. bên cạnh ông là một quả bầu khô lớn đựng rượu, một thứ rượu do ông cất lấy ngâm với củ cỏ gâú, loại củ già đen bóng như sừng. trước ông là một đĩa cá sông nướng và một chiếc rổ con đựng những con trùng trục đã hấp chín với gừng khô. chiều nào ông cũng ngồi uống rượu như thế cho tới khuya và không hề động đến một hạt cơm. chỉ những đêm mưa bão ông mới chịu ở trong chiếc nhà thuyền. [...] ngày mai cả nhà ông sẽ đi bãi yên. đó là đoạn sông rộng và êm chạy ven chân một dãy núi đá vôi. ở dưới đáy khúc sông đó là mộ người vợ bất hạnh của ông. thế là đã hơn mười năm rôì. con sông đổ biết bao nhiêu nước ra biển cũng như ông có biết bao thay đổi trên đời. vào mùa hè cách đây mười hai năm. đó là mùa hè đầy bệnh tật và đói kém. dọc hai bên bờ sông ông qua, ngày nào cũng vọng tiếng kèn đám ma thảm thiết và thấp thoáng sau những lùm tre gầy nhằng, úa vàng là những chiếc cờ tang vật vờ bay. rồi vợ ông cũng trở thành nạn nhân của mùa hè ghê rợn âý. bà để lại cho ông ba đứa con. đứa con gái hồi đó mới hơn bốn tuổi. trong suốt ba ngày ròng rã, ông ngồi trên mui thuyền trước xác vợ. hai đứa con trai ông vừa chèo thuyền vừa dỗ đứa em gái của mình ốm yếu khóc ngặt nghẽo suốt gaỳ. ông cập thuyền vào những đám dân cư hai bên sông để xin được chôn cất vợ. nhưng không một nơi nào chấp thuận. họ xua đuổi gia đình ông như xua đuổi một thứ ma quỷ chuyên đi gieo rắc cái chết. họ sợ bị lây bệnh dịch. ông không còn biết về đâu. ông sinh ra trên chiếc thuyền naỳ. ông chỉ biết con thuyền và dòng sông. đến tối ngày thứ ba, ông ôm xác vợ khóc. giữa dòng sông mênh mang, con thuyền vật vờ trôi với một ngọn đèn dầu héo hắt trên mui thuyền. cuối cùng chỉ còn lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi số phận. ông chôn vợ xuống đáy dòng sông ở chỗ khúc sông rộng và êm nhất. ông cùng hai đứa con dùng gàu sắt thường dùng để lấy cát đào một cái hố dưới đáy sông và để người đàn bà yên nghỉ ở đó. họ chở một thuyền đá xanh xếp lên thành chiếc mộ để tránh nước cuốn đi. đêm đó ông xõa tóc, đốt hương lễ thần sông. ông đổ hết một bầu rượu lớn xuống sông và nguyền rằng: tất cả những người trong gia đình ông sẽ không bao giờ đặt chân lên mặt đất. họ sẽ sống một cuộc đời trên sông. ông luôn luôn nói với con cái rằng: nếu chúng nó để gót chân chạm vào mặt đất đôi bờ thì trái tim chúng sẽ biến thành trái tim quỷ, chúng sẽ trở thành những con thú độc ác. hằng năm cứ đến ngày giỗ vợ, dù công việc bận thế nào gia đình ông cũng nghỉ. ông sắm sửa lễ vật và khi mặt trời khuất núi thì cả gia đình chèo thuyền đến bãi yên. ông xõa tóc và mặc aó, đây là ngày duy nhất trong năm ông mặc áo trừ những ngày đông rét mướt. sau khi làm lễ ông cùng hai người con trai lặn xuống đáy sông sửa sang lại ngôi mộ. ít năm sau người con trai cả lấy vợ. cô dâu là con gái một bạn thuyền của ông. ngày cưới con, ông cho đứa con trai thứ hai bơi chiếc mủng nhỏ đi suốt mấy ngày dọc một bãi sông mời bạn thuyền. đám cưới được tổ chức ở bãi yên với hàng chục chiếc thuyền các loại kết lại thành một chiếc bè lớn. (trích "mùa hoa cải bên sông", nguyễn quang thiều, nxb hội nhà văn, 2012)
câu 3. Câu văn "Cuối cùng chỉ còn lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi số phận" sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa với hình ảnh "dòng sông mở rộng lòng". Biện pháp này tạo nên hiệu quả nghệ thuật đặc biệt:
* Gợi hình: Hình ảnh dòng sông hiền hòa, bao dung, sẵn sàng dang tay đón nhận mọi số phận, giúp người đọc dễ dàng hình dung sự ấm áp, an toàn mà dòng sông mang lại.
* Gợi cảm: Dòng sông không chỉ là một dòng chảy vô tri vô giác mà trở nên gần gũi, thân thuộc, như một người mẹ hiền, một người bạn đồng hành, chia sẻ nỗi niềm, an ủi, vỗ về những tâm hồn bơ vơ, lạc lõng.
* Tăng sức biểu đạt: Câu văn trở nên giàu ý nghĩa, khẳng định giá trị thiêng liêng của dòng sông, nơi ẩn chứa tình yêu thương, sự bao dung, vị tha, là chốn nương tựa tinh thần cho con người.
Biện pháp nhân hóa trong câu văn này góp phần tạo nên vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn cho tác phẩm, đồng thời truyền tải thông điệp sâu sắc về tình yêu quê hương, đất nước, về khát khao tìm kiếm sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn con người.
câu 4. Lời nguyền của ông Lư trong đoạn trích "Mùa Hoa Cải Bên Sông" của Nguyễn Quang Thiều chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc và phản ánh quan niệm về sự hy sinh và trách nhiệm đối với gia đình. Ông Lư, một người cha đau khổ vì mất mát người vợ thân yêu, quyết định giữ gìn di sản tình cảm và kỷ niệm bằng cách truyền đạt lời nguyền cho con cháu. Lời nguyền này không chỉ là một hình thức bảo vệ mà còn là biểu tượng của sự gắn bó mật thiết giữa gia đình và dòng sông. Nó tạo nên một mối liên hệ tinh thần mạnh mẽ giữa quá khứ và tương lai, đồng thời khẳng định giá trị của tình yêu thương và trách nhiệm gia đình. Tuy nhiên, lời nguyền cũng ẩn chứa sự hạn chế và áp lực tâm lý, khiến cho con cháu phải tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc mà ông Lư đặt ra. Điều này có thể dẫn đến sự kìm hãm tự do và khả năng phát triển bản thân của thế hệ sau. Từ đó, tác phẩm gợi mở suy ngẫm về sự cân bằng giữa sự hy sinh và trách nhiệm gia đình với quyền tự do và khám phá bản thân.
câu 5. Em đồng ý với quan niệm của ông Lư. Vì đối với ông Lư, mặt đất chính là nơi mà vợ ông đã phải bỏ mạng bởi căn bệnh dịch khủng khiếp. Ông muốn bảo vệ các con khỏi sự đau khổ, tuyệt vọng giống như ông từng trải qua. Việc cấm các con đặt chân lên mặt đất giúp ông giữ gìn kỷ niệm đẹp đẽ về người vợ quá cố, đồng thời tạo nên một môi trường an toàn, bình yên cho gia đình ông. Tuy nhiên, việc áp đặt suy nghĩ của bản thân lên con cái có thể gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực. Các con cần được tự do khám phá, phát triển bản thân và tìm hiểu về thế giới xung quanh. Do đó, cha mẹ cần cân nhắc kỹ lưỡng để đưa ra quyết định phù hợp, đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho con cái.