i:
câu 1. Thể thơ của bài "Chiều Xuân" là thơ tự do. Bài thơ không tuân thủ quy tắc về số lượng từ trong mỗi dòng, nhịp điệu linh hoạt, tạo nên sự phóng khoáng, tự nhiên cho tác phẩm.
câu 2. Những từ ngữ, hình ảnh chỉ bức tranh mùa xuân ở khổ 1 là: mưa đổ bụi êm êm, bến vắng, quán tranh đứng im lìm, chòm xoan hoa tím rụng, đường đê cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ, cánh bướm rập rờn, trâu bò thong thả cúi ăn mưa, đồng lúa xanh rờn, cò con chốc chốc vụt bay ra, cô gái yếm thắm cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
câu 3. Phép nhân hoá "đò biếng lười" và "quán tranh đứng im lìm" đã tạo nên hình ảnh sinh động về cảnh vật yên tĩnh, vắng vẻ của buổi chiều xuân. Hình ảnh chiếc đò "biếng lười", không chịu di chuyển, gợi lên cảm giác thư thái, nhàn nhã. Quán tranh cũng như đang chìm vào giấc ngủ say, tạo nên khung cảnh tĩnh lặng, bình yên. Phép nhân hoá này giúp cho bức tranh thiên nhiên trở nên gần gũi, có hồn hơn, khiến người đọc cảm nhận được sự thanh bình, nhẹ nhàng của mùa xuân.
câu 4. Bài thơ "Chiều Xuân" của Anh Thơ thể hiện tình cảm sâu sắc và tinh tế của tác giả đối với vẻ đẹp tự nhiên và cuộc sống nông thôn Việt Nam. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ tươi sáng, hình ảnh sinh động để miêu tả cảnh vật mùa xuân ở vùng quê Bắc Bộ. Bức tranh thiên nhiên được vẽ nên qua từng chi tiết nhỏ như mưa bụi êm đềm, dòng sông lững lờ trôi, quán tranh im lìm, cỏ non mọc xanh mướt, đàn sáo đen mổ vu vơ, cánh bướm rập rờn, trâu bò thong thả gặm cỏ, lúa xanh rờn và ướt đẫm, cò con bay lên bất ngờ... Tất cả tạo nên một khung cảnh yên bình, tĩnh lặng nhưng cũng rất sống động và đầy sức sống. Tình cảm của tác giả không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cảnh vật mà còn thể hiện sự trân trọng, yêu mến đối với cuộc sống giản dị, mộc mạc của người dân nông thôn. Qua đó, ta thấy được tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của nhà thơ khi nhìn nhận thế giới xung quanh.
câu 5. Anh Thơ là nữ sĩ tiêu biểu cho nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ của bà mang đậm dấu ấn của hồn quê đất Việt. Bài thơ "Chiều Xuân" được rút từ tập thơ đầu tay của Anh Thơ, viết về cảnh sắc nông thôn miền Bắc vào buổi chiều xuân thật bình yên và tĩnh lặng. Qua đó, gửi gắm tâm trạng buồn man mác của nhà thơ.
Bài thơ đã vẽ nên bức tranh chiều xuân bình dị, đơn sơ, mộc mạc nơi làng quê. Bức tranh ấy được mở ra với khung cảnh bến sông vắng - một hình ảnh rất quen thuộc ở những làng quê vùng Bắc Bộ.
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Nỗi buồn dường như bao trùm lên mọi cảnh vật, khiến cho chợ trưa vốn đã vắng vẻ lại càng thêm trống vắng. Chợ chiều thường gợi buổn vì nó nhắc con người ta nhớ đến sự mất mát đi sự náo nhiệt, sầm uất khi phiên chợ kết thúc. Bến sông cũng vậy, con thuyền lúc này giống như đang nghỉ ngơi, thả hồn theo những cơn mưa bụi mà buông xuôi mọi thứ để mặc cho dòng nước sông chảy. Quán nước cũng không có một bóng người qua lại. Chòm xoan hoa tím nở rộ nhưng lại bị những cơn mưa vùi dập, rơi rụng tơi bời. Tất cả đều tạo nên một khung cảnh đìu hiu, buồn man mác.
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Khung cảnh bắt đầu tươi sáng hơn khi tác giả sử dụng màu xanh của lúa non để tô điểm cho bức tranh. Màu xanh của lúa đang vào mùa gặt gợi nên sức sống mãnh liệt của những cô gái quê chăm chỉ. Hình ảnh con cò xuất hiện trong câu ca dao xưa gợi liên tưởng đến những người nông dân một đời lam lũ, vất vả, cần cù, chịu khó. Những con cò ấy vẫn ngày đêm chăm chỉ làm việc dù thời tiết có ra sao. Cô gái yếm thắm cúi mình cào cỏ, bất chợt giật mình bởi tiếng cất cánh của đàn chim. Sự đối lập giữa hình ảnh cô gái cần mẫn với bầu trời cao rộng kia đã gợi lên thân phận nhỏ bé, vô định của con người trước cuộc đời nhiều sóng gió.
Dường như nỗi buồn của buổi chiều xuân đã tan biến, nhường chỗ cho niềm tin hi vọng về tương lai tươi sáng.
Như vậy, bài thơ "Chiều xuân" đã khắc họa một cách chân thực bức tranh thiên nhiên làng quê vào buổi chiều xuân. Từ đó, gửi gắm tình yêu tha thiết của Anh Thơ đối với quê hương, đất nước.
ii:
câu 1. Anh Thơ là nữ thi sĩ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Bà có đóng góp quan trọng trong việc đưa thơ Việt Nam hiện đại đến gần hơn với thế giới bằng những vần thơ giàu chất liệu đời thường nhưng lại mang đậm hơi thở của cuộc sống. Thơ của bà mang nét duyên dáng, mềm mại rất riêng, đặc biệt khi viết về cảnh sắc nông thôn. Chiều Xuân là một bài thơ như vậy, qua bài thơ, chúng ta thấy được bức tranh làng quê Bắc Bộ tuyệt đẹp.
Bài thơ Chiều xuân nằm trong tập thơ đầu tay của Anh Thơ, với giọng thơ nhẹ nhàng, mang chút bâng khuâng, nữ sĩ đã vẽ lên bức tranh làng quê Bắc Bộ thật êm đềm, bình dị mà cũng thu hút lạ thường. Bức tranh ấy được bắt đầu từ khổ thơ đầu tiên:
"Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời"
Nữ sĩ đã lựa chọn một thời điểm đặc biệt, đó là lúc chiều mưa buổi chiều, khi mọi hoạt động tấp nập, ồn ào của con người và đất trời dường như ngưng đọng lại. Từ xa xưa, ông cha ta đã coi chiều mưa là thời khắc để cảm xúc lên ngôi, dễ gợi nhớ, gợi sầu cho con người. Chính vì vậy mà trong thơ ca rất nhiều lần xuất hiện chiều mưa với những cảm xúc trầm buồn.
Trong khổ thơ đầu tiên, nhà thơ Anh Thơ đã sử dụng hàng loạt những tính từ chỉ trạng thái tĩnh, lặng, vắng, khơi gợi nên một không gian mênh mang, rộng lớn nhưng lại hoàn toàn tĩnh lặng. Mọi vật đều chìm vào trong sự yên ả đến lạ thường. Con đò là thứ gần với sự sống con người nhất thì cũng ngẩn ngơ, chậm rãi, lững thững xuôi theo dòng nước. Chùm thơ tiếp theo, bức tranh làng quê Bắc Bộ vào buổi chiều mưa lại càng rõ nét hơn:
"Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa."
Nếu như trong khổ thơ đầu tiên, nhà thơ chủ yếu miêu tả cảnh vật thì đến khổ thơ này, con người đã xuất hiện, tuy nhiên sự xuất hiện này cũng vô cùng mờ nhạt chỉ như nét chấm phá trong bức tranh. Hình ảnh con người được miêu tả qua chi tiết đàn sáo đen, qua hành động mổ vu vơ, qua mấy cánh bướm rập rờn, qua những chú trâu, chú bò đang thong thả ăn cỏ. Tất cả đều là những vật vô cùng quen thuộc trong bức tranh làng quê Việt Nam, tất cả đều gợi lên sự yên bình, tĩnh lặng. Nhà thơ còn khéo léo sử dụng màu xanh làm gam màu chủ đạo, khiến cho bức tranh không chỉ có sự hòa hợp giữa cảnh vật với nhau mà còn có sự hòa hợp giữa cảnh vật với con người, tạo nên tổng thể thống nhất, hài hòa.
Cuối cùng, bức tranh chiều xuân được khép lại bằng hình ảnh:
"Trong đồng lúa xanh rợn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Củi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa."
Vẫn là cảnh vật thân thuộc, vẫn là những hình ảnh quen thuộc nhưng khi xuất hiện vào buổi chiều mưa lại mang đến những cảm xúc khác biệt. Những cây lúa xanh rờn, ướt đẫm sau cơn mưa trở thành phông nền tuyệt vời cho những cánh cò trắng chao liệng. Giữa khung cảnh xanh mát của đồng lúa, màu đỏ của chiếc yếm thắm nổi bật và mang đến điểm nhấn ấn tượng. Câu thơ cuối gợi lên hình ảnh một cô gái đang cần mẫn làm việc, hình ảnh này đã gây thương nhớ cho biết bao thế hệ độc giả. Như vậy, bài thơ Chiều xuân đã phác họa bức tranh thiên nhiên buổi chiều xuân ở nông thôn Bắc Bộ, bức tranh ấy giản dị, mộc mạc nhưng lại mang nét đặc trưng riêng của vùng đồng bằng phía Bắc.
Với tài năng quan sát tỉ mỉ, tinh tế của mình, nhà thơ Anh Thơ đã đem đến cho độc giả những cảm nhận chân thực, sinh động nhất về cảnh vật, về con người. Bài thơ Chiều xuân xứng đáng là bức tranh thiên nhiên đẹp nhất trong tập thơ đầu tay của nữ sĩ.