Bài thơ Đồng Chí được nhà thơ Chính Hữu sáng tác bằng thể thơ tự do, nhờ đó đã góp phần khắc họa nên vẻ đẹp phóng khoáng, hào sảng của những người lính cách mạng thời kì kháng chiến chống Pháp. Không chỉ vậy, chính thể thơ này giúp nhà thơ dễ dàng bộc lộ, giãi bày cảm xúc một cách có chiều sâu và mang nhiều tầng lớp ý nghĩa hơn.
Ngay từ những câu thơ mở đầu, hình ảnh những người lính đã hiện lên với xuất thân bình dị, quen thuộc:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Họ đều là những người nông dân nghèo, quanh năm gắn bó với ruộng đồng. Sự nghèo khó của quê hương dường như càng đẩy họ xa hơn với những mộng ước cao sang. Tuy nhiên, khi đất nước bị giặc xâm lăng, ở họ đã có những thay đổi đáng kể. Từ những người "xa lạ", họ đã gặp nhau tại một điểm, trở thành những người đồng đội "chẳng hẹn mà quen". Họ cùng nhau đứng dưới ngọn cờ của Cách mạng, cùng nhau chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Tình cảm gắn bó của họ được hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, mục đích cao cả: Súng bên súng, đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Tri kỉ vì đã hiểu rõ về nhau, và còn vì đã cùng trải qua những khoảnh khắc thiếu thốn, nhớ nhà da diết. Những giây phút nằm võng, uống nước suối, ăn củ sắn,… cũng trở thành những kỉ niệm vui vẻ, ấm áp tình đồng đội.
Không chỉ vậy, họ còn thấu hiểu hoàn cảnh của nhau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Những người lính ấy đã tạm gác lại chuyện riêng tư, bỏ lại sau lưng những người thân yêu nhất để ra đi chiến đấu vì tổ quốc. Trong lòng mỗi người lính, họ đều biết người thân của mình đang ngày đêm mong chờ họ trở về. Nhưng ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc đã chiến thắng nỗi lo lắng, bãn khoăn ấy. Họ ra đi với tinh thần: "Uống nước nhớ nguồn", "Thà hi sinh chứ không chịu mất nước". Hoàn cảnh của họ thật khác nhau, song tình cảm lại rất giống nhau. Đó là tình cảm gắn bó, keo sơn, thắm thiết giữa những người đồng đội, đồng chí.
Chính Hữu đã khéo léo đưa hình ảnh biểu tượng "Đầu súng trăng treo" vào cuối bài thơ. Hai hình ảnh tưởng chừng như trái ngược nhau, nhưng lại tạo nên nét hài hòa, bổ sung cho nhau một cách tuyệt vời. Ngọn súng hướng về phía trước, sẵn sàng chiến đấu, còn ánh trăng lại gợi nhắc về cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Người lính cầm trên tay ngọn súng, bảo vệ cho vầng trăng mãi tỏa sáng trên bầu trời xanh thẳm. Đó là vầng trăng của khát vọng hòa bình, của niềm tin chiến thắng mãnh liệt.
Với những ngôn từ giản dị, mộc mạc mà giàu sức gợi hình, gợi cảm cùng giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, Chính Hữu đã đem đến cho người đọc những rung cảm tuyệt vời nhất về tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng, cao đẹp.