10/08/2025

10/08/2025
11/08/2025
Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương năm 1954 trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: từ ngày 8-5 đến 19-6-1954; giai đoạn thứ hai: từ ngày 20-6 đến 10-7-1954; giai đoạn thứ ba: từ ngày 11-7 đến 21-7-1954; với 75 ngày thương lượng, đàm phán căng thẳng, bao gồm 7 phiên họp rộng và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn cùng các hoạt động tiếp xúc ngoại giao dồn dập phía sau các hoạt động công khai. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô V. Mi-khai-lô-vích Mô-lô-tốp và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh An-thô-ni Ê-đen (Anthony Eden) đồng chủ tịch hội nghị. Các trưởng đoàn các nước tham dự hội nghị là bộ trưởng bộ ngoại giao hoặc thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại giao. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu tham dự hội nghị.
Hội nghị đã ký kết ba hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia và thông qua Tuyên bố chung bao gồm 13 điểm, với sự nhất trí của bảy đoàn đại biểu, trừ Mỹ và Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Pháp dựng lên. Nội dung cơ bản của Tuyên bố chung là các nước tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia; tuyệt đối không can thiệp vào nội trị các nước đó; ngừng bắn trên toàn bộ chiến trường Đông Dương; quân đội Liên hiệp Pháp rút khỏi Đông Dương trong thời hạn 300 ngày; vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân đội; sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7-1956 để thống nhất nước Việt Nam. Ủy ban Giám sát quốc tế, bao gồm Ba Lan, Ấn Độ và Ca-na-đa, sẽ được thành lập nhằm giám sát việc thi hành các điều khoản của Hiệp định.
Từ những điều khoản trên, có thể khẳng định, Hiệp định Giơ-ne-vơ có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng ba nước Đông Dương nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng và ý nghĩa của nó được thể hiện dưới nhiều góc độ. Một là, nếu trong Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, Pháp chỉ công nhận Việt Nam là quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp và luôn khẳng định quyền lợi của Pháp ở Nam Bộ thì đến Hiệp định Giơ-ne-vơ, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã được Pháp và các quốc gia khác thừa nhận. Pháp phải rút quân để lập lại hòa bình ở Đông Dương. Hai là, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, trở thành căn cứ địa cách mạng, hậu phương lớn của cách mạng miền Nam. Đồng thời, Hiệp định đặt cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sau này.
Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ còn có ý nghĩa quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc; mở đầu cho quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới, làm thay đổi cục diện thế giới và khu vực, thúc đẩy phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đòi độc lập dân tộc. Nhấn mạnh về ý nghĩa quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, Hội nghị Giơ-ne-vơ “ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”(5). Hội nghị là cơ sở chính trị - pháp lý quốc tế quan trọng để nhân dân Việt Nam đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, độc lập và dân chủ trong toàn quốc.
Tuy nhiên, theo nhận định của một số chuyên gia, Hiệp định Giơ-ne-vơ chưa phản ánh đầy đủ thắng lợi của nhân dân Việt Nam nói riêng, nhân dân ba nước Đông Dương nói chung trên chiến trường và xu thế của cuộc chiến tranh. Cả Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia đều có phần chịu ảnh hưởng bởi sự chi phối của xu thế hòa hoãn và sự thỏa hiệp. Đó là, việc xác định ranh giới quân sự tạm thời và phân chia khu vực tập kết chuyển quân ở Việt Nam không phải vĩ tuyến 13 hay vĩ tuyến 16 theo phương án đấu tranh của Việt Nam, mà là vĩ tuyến 17. Hội nghị đã quyết định những vấn đề liên quan đến các lực lượng kháng chiến ở Lào và Cam-pu-chia mà không có sự tham gia của các chính phủ kháng chiến ở hai nước này. Thời hạn tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam không phải là 6 tháng như đề nghị của Việt Nam, mà là 2 năm. Về việc thi hành, trên thực tế Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ được thực hiện một phần, đó là: chấm dứt chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương; tập kết, chuyển quân theo khu vực và thời gian quy định. Sau này, việc tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam đã không thể thực hiện do chính sách can thiệp và xâm lược của Mỹ. Tóm lại, bối cảnh lịch sử và nhất là tương quan lực lượng lúc đó chưa cho phép Việt Nam giành thắng lợi cuối cùng. Thế nhưng, với quyết tâm giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đến năm 1973 với Hội nghị Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử cách mạng.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời