avatar
level icon
phamlau

2 giờ trước

Viết bài văn phân tích tác phẩm Quê hương của Tế Hanh trình bày theo hướng sau: * Mở bài + Giới thiệu về tác giả, tác phẩm. + Nêu ý kiến khái quát về chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ th...

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của phamlau
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

2 giờ trước

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo

Tế Hanh (1921-2009), tên thật là Trần Tế Hanh, quê tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Ông có mặt trong phong trào thơ Mới ở chặng cuối với những bài thơ mang nỗi buồn và tình yêu quê hương sâu đậm. Sau năm 1945, Tế Hanh sáng tác phục vụ cách mạng và kháng chiến. Bài thơ "Quê hương" được sáng tác năm 1939, khi nhà thơ mới 18 tuổi, đang học Trung học tại Huê. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945). Đây là bài thơ mở đầu cho chủ đề quê hương trong thơ Tế Hanh. Với những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, với những người dân làng chài khỏe khoắn, tràn ngập sức sống, bức tranh thiên nhiên tươi mát, thơ mộng, và cả bức tranh sinh hoạt lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Qua đó, tác giả cũng bộc lộ rõ tình yêu quê hương tha thiết, đằm thắm của mình.

Bài thơ được chia thành bốn phần. Hai câu thơ đầu tiên miêu tả khung cảnh làng quê ven biển tuyệt đẹp và thơ mộng. Bốn câu thơ tiếp theo miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Mười câu thơ tiếp theo miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về bến. Sáu câu thơ còn lại là hình ảnh của làng quê miền biển và nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.

Trong hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã miêu tả khung cảnh làng quê ven biển vào buổi sáng ban mai:

"Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông."

Hai câu thơ này đã giới thiệu vị trí địa lý của làng quê ven biển. Làng nằm gần biển, chỉ cách nửa ngày sông. Người dân trong làng sống bằng nghề chài lưới. Từ đó, ta có thể hình dung ra khung cảnh một làng quê thanh bình, yên ả, với dòng sông êm đềm chảy, và tiếng sóng vỗ rì rào. Khung cảnh ấy đã tạo nên một không gian thơ mộng, trữ tình, khiến cho người đọc cảm thấy yêu mến và trân trọng vẻ đẹp của quê hương.

Bốn câu thơ tiếp theo miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá:

"Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang."

Trong bốn câu thơ này, tác giả đã sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa để miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Chiếc thuyền được so sánh với con tuấn mã, thể hiện sự nhanh nhẹn, dũng mãnh của chiếc thuyền. Mái chèo được nhân hóa, phăng mái chèo mạnh mẽ, thể hiện khí thế hùng tráng, quyết tâm chinh phục biển cả của người dân làng chài. Hình ảnh này đã gợi lên một không khí sôi nổi, phấn khởi của buổi ra khơi.

Mười câu thơ tiếp theo miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về bến:

"Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió..."

Trong mười câu thơ này, tác giả đã sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ để miêu tả cánh buồm. Cánh buồm được so sánh với mảnh hồn làng, thể hiện tình yêu quê hương tha thiết của người dân làng chài. Cánh buồm rướn thân trắng bao la thâu góp gió, thể hiện khát vọng vươn xa, chinh phục biển cả của họ. Hình ảnh này đã gợi lên một không khí vui tươi, phấn khởi của buổi trở về.

Sáu câu thơ còn lại là hình ảnh của làng quê miền biển và nỗi nhớ quê hương của nhà thơ:

"Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng."

Trong sáu câu thơ này, tác giả đã sử dụng các biện pháp tu từ liệt kê, so sánh để miêu tả khung cảnh nhộn nhịp, náo nhiệt của bến đỗ. Bến đỗ đông vui, tấp nập, mọi người đều hân hoan chào đón những con thuyền trở về với những khoang cá đầy ắp. Những con cá tươi ngon, thân bạc trắng, là kết quả của một chuyến ra khơi thành công. Hình ảnh này đã gợi lên một không khí ấm áp, hạnh phúc của cuộc sống làng chài.

Như vậy, bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh đã khắc họa một bức tranh tươi sáng, sinh động về làng quê miền biển, với những người dân làng chài khỏe khoắn, tràn ngập sức sống, cùng với khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình. Đồng thời, bài thơ cũng thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, đằm thắm của nhà thơ.

Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ tám chữ, nhịp thơ linh hoạt. Tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,... để tăng sức gợi hình, gợi cảm cho bài thơ. Ngôn ngữ thơ giản dị, giàu hình ảnh, gợi cảm.

Tóm lại, bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh là một bài thơ hay, giàu ý nghĩa. Bài thơ đã thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, đằm thắm của nhà thơ. Bài thơ cũng là một bức tranh đẹp về làng quê miền biển, với những người dân làng chài khỏe khoắn, tràn ngập sức sống, cùng với khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Nhân Irving

1 giờ trước

Tế Hanh là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới với một tâm hồn trong trẻo, chân thành. Giữa những vần thơ tình tự của Xuân Diệu hay nỗi sầu vạn kỷ của Huy Cận, Tế Hanh chọn cho mình một góc nhỏ bình yên nhưng đầy sức sống: đó là quê hương. Bài thơ "Quê hương" sáng tác năm 1939, khi ông đang học tập xa nhà, đã trở thành một trong những kiệt tác viết về tình yêu cội nguồn. Tác phẩm không chỉ là một bức tranh lao động khỏe khoắn của làng chài ven biển mà còn là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp tả thực và lãng mạn, để lại dấu ấn nghệ thuật sâu sắc trong lòng độc giả.

Mở đầu bài thơ, Tế Hanh giới thiệu quê hương mình bằng những lời lẽ mộc mạc nhưng đầy tự hào. Đó là một làng chài làm nghề chài lưới, nằm cách biển "nửa ngày sông". Trong tâm tưởng của người con xa xứ, hình ảnh quê nhà hiện lên gắn liền với những buổi sớm mai hồng rạng rỡ. Khung cảnh ra khơi được miêu tả bằng những gam màu tươi sáng: "Trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng". Đây không chỉ là điều kiện thời tiết thuận lợi mà còn là sự khởi đầu đầy hứa hẹn cho một chuyến hành trình chinh phục biển cả. Hình ảnh chiếc ghe "phăng mái chèo" và "vượt trường giang" cho thấy nhịp sống lao động khẩn trương, hăm hở của những người dân chài lưới vốn coi biển là nhà.

Điểm sáng nghệ thuật rực rỡ nhất trong đoạn thơ chính là hình ảnh cánh buồm. Tế Hanh đã có một sự liên tưởng độc đáo khi so sánh: "Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng". Một vật dụng vô tri, hữu hình đã được nâng tầm thành một biểu tượng tinh thần vô hình, thiêng liêng. Cánh buồm ấy không chỉ đón gió mà còn chứa đựng cả niềm tin, hy vọng và sức sống của bao thế hệ dân chài. Động từ "rướn" trong câu "Rướn thân trắng bao la thâu góp gió" đã nhân hóa cánh buồm thành một thực thể có khát vọng, đang nỗ lực hết mình để cống hiến cho công việc lao động.

Nếu cảnh ra khơi là sự hăng hái thì cảnh thuyền về lại là một bức tranh của sự no ấm và bình yên. Không khí "ồn ào", "tấp nập" trên bến đỗ chính là âm thanh của hạnh phúc sau những ngày lênh đênh. Những người dân chài hiện lên với vẻ đẹp ngoại hình khỏe khoắn, mang đậm đặc trưng của vùng biển: "làn da ngăm rám nắng", "thân hình nồng thở vị xa xăm". Sự sáng tạo trong từ ngữ "vị xa xăm" gợi lên cái nắng, cái gió và cả sự bao la của đại dương thấm đẫm vào từng tế bào con người. Ngay cả con thuyền sau chuyến đi dài cũng được nghỉ ngơi như một thực thể sống: "Mỏi mệt trở về nằm im trên bến / Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ". Phép nhân hóa và sự chuyển đổi cảm giác qua từ "nghe" đã thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa con người, sự vật với biển khơi đại ngàn.

Kết thúc bài thơ, nỗi nhớ quê hương vỡ òa thành những lời tự sự chân thành. Khi sống trong thực tại xa cách, nhà thơ nhớ về quê hương qua những hình ảnh cụ thể nhất: màu xanh của nước, màu bạc của cá, chiếc buồm vôi và đặc biệt là "mùi nồng mặn" của biển. Đó là cái mùi của muối biển, của mồ hôi và của tình yêu quê hương đã thấm sâu vào máu thịt. Tế Hanh đã khẳng định một chân lý: dù đi đâu, về đâu, linh hồn con người vẫn luôn neo đậu ở mảnh đất quê hương thân thương.

Về mặt nghệ thuật, bài thơ thành công nhờ thể thơ tám chữ linh hoạt, ngôn ngữ bình dị nhưng giàu sức gợi. Việc sử dụng linh hoạt các biện pháp so sánh, nhân hóa đã làm cho bức tranh làng chài không chỉ chân thực mà còn mang vẻ đẹp lãng mạn, kỳ vĩ.

Tóm lại, "Quê hương" của Tế Hanh không chỉ là một bài thơ miêu tả cảnh sinh hoạt đơn thuần, mà là một bài ca về tình yêu nguồn cội. Tác phẩm nhắc nhở mỗi chúng ta về sự trân trọng đối với quê hương và những người lao động thầm lặng. Qua những vần thơ này, Tế Hanh đã tạc vào lòng người đọc hình ảnh một làng chài Việt Nam đầy sức sống, mãi mãi vươn mình ra biển lớn cùng với "mảnh hồn làng" bất diệt.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 1
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved