Cao Bá Quát là một nhà thơ, nhà Nho tài hoa, lỗi lạc với những phẩm chất cao quý nhưng cũng có những khía cạnh phức tạp trong tính cách. Ông là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến Việt Nam đầu thế kỷ 19.
Cuộc đời của Cao Bá Quát
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiện. Ông sinh năm Kỷ Dậu (1809) tại làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội).
Năm 1831, ông thi đỗ Á nguyên nhưng khi duyệt quyển, bộ Lễ đã chèn ép xếp ông đứng cuối bảng trong 20 người thi đỗ. Con đường công danh của ông chưa bao giờ thuận lợi, nhiều lần thi hỏng bởi cá tính ngang tàng, vượt ngoài khuôn phép được thể hiện rõ nét trong các tác phẩm văn thơ.
Vào năm 1841, Cao Bá Quát được giữ chức vụ Hành tẩu bộ Lễ. Trong thời gian này, ông được giao nhiệm vụ làm sơ khảo kỳ thi được tổ chức tại Huế. Ông và Nguyễn Văn Siêu đã tự ý chỉnh sửa lại một số bài văn hay nhưng phạm húy. Sự việc bại lộ, Cao Bá Quát bị cách chức và giam lại để chờ lệnh.
Sau đó, ông được nhà vua cử đi Giang Lưu Ba (Indonesia) lấy công chuộc tội. Khi về nước, ông nhiều lần trải qua sóng gió thăng trầm chốn quan trường. Ông đã từng giữ nhiều chức vụ như: sắp xếp văn thư tại Hàn Lâm Viện, giáo úy phủ Quốc Oai.
Đắc tội với quan lớn trong triều, Cao Bá Quát xin từ quan về quê dạy học. Năm 1954, nước ta xảy ra nạn châu chấu, dân chúng đói khổ. Cao Bá Quát tham gia cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, được tôn làm quân sư, Lê Duy Cự làm minh chủ.
Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa Cao Bá Quát đã thất bại. Triều đình nhà Nguyễn tuyên dương Cao Bá Quát đã mất trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương. Tuy nhiên, cái chết của Cao Bá Quát đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Gia tộc Cao Bá Quát bị tru di tam tộc, nhiều tác phẩm của ông đã bị tiêu hủy.
Cao Bá Quát với vai trò nhà thơ
Cao Bá Quát là một nhà thơ tài năng và dũng cảm, được người đời tôn vinh là Thanh Quát “Thần Siêu, Thánh Quát”. Thơ Cao Bá Quát thuộc khuynh hướng hiện thực phê phán, bộ mặt xã hội đương thời được phản ánh khá rộng rãi, đa dạng, phong phú trong tác phẩm của ông. Chẳng hạn, qua thơ ông, người ta thấy được cuộc sống thiếu thốn, khổ cực của một nhà Nho nghèo với hoài bão và sự cống hiến cho đời của một người bị hàm oan; Những áp lực chém giết, đòn roi dã man, tàn bạo của triều đình nhà Nguyễn đối với những kẻ lừa đảo tài ba, có chí tiến bộ và cuộc sống cơ cực của nhân dân lao động trong xã hội đương thời. Như nhiều nhà thơ tiến bộ khác, Cao Bá Quát cũng bắt đầu từ những vấn đề cá nhân đến những vấn đề xã hội, càng về sau, thơ ông càng hiện thực. Từ những chi tiết chân thực đó, chúng ta thấy được bộ mặt của một chế độ dã man, tàn bạo, phi nhân tính, đáng nguyền rủa và đáng bị tiêu diệt.
Thơ văn Cao Bá Quát là sản phẩm tinh thần của một con người có cốt cách cứng cỏi, trí tuệ minh mẫn; một tâm hồn đón gió thời đại, một trái tim nhạy cảm với cảm xúc. Vì vậy, thơ ông chứa đựng nhiều tình cảm hay và tư tưởng tiến bộ.
Ngưỡng mộ, khâm phục các anh hùng cứu nước, ông đã làm thơ như Vịnh Phù Đổng Thiên Vương, Vịnh Trần Hưng Đạo… Qua ca dao thần của các anh hùng ấy, Cao Bá Quát bộc lộ khát vọng cứu dân, cứu nước . Anh ta dường như đã tìm thấy những điểm mạnh từ lịch sử của các dân tộc. Đây là điểm khác biệt giữa thơ Vịnh lịch sử của ông với các nhà thơ khác.
Đặc biệt trong cuộc đời, Cao Bá Quát đã ý thức được vận mệnh của đất nước trước hiểm họa xâm lược của phương Tây.
Cao Bá Quát là người rất có lòng thương dân, ông đứng về phía quần chúng lao động để cảm thông nỗi khổ đói rách, cơm rách của họ.
Cao Bạt Quát cũng thấy rằng nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khổ của quần chúng lao động là do sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Vì vậy, nhà thơ đã dày công mài giũa và phê phán thẳng thắn chế độ cai trị hà khắc của triều đình nhà Nguyễn. Lòng yêu thương quần chúng của Cao Bá Quát cũng đã biến thành trách nhiệm, đó cũng là nét đặc sắc của tác giả này.
Cao Bá Quát với hoạt động chính trị
Thực ra, cũng như bao sĩ phu khác, Cao Bá Quát vào đời bằng con đường khoa cử và muốn giúp đời bằng con đường làm quan, nhưng càng ngày ông càng cảm thấy bế tắc. Hàng ngày, ông nhìn thấy bao cảnh đói khổ của nông dân và bất công của xã hội. Tuy có lúc ông tỏ ra bi quan chán nản, nhưng vốn tính kiên cường, ông không thể tìm lối thoát nào khác ngoài con đường vùng dậy đấu tranh. Và cuộc khởi nghĩa do chính ông vận động và tổ chức là một hệ quả tất yếu.
Năm 1850, không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát phải rời kinh đô Huế đi làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây). Một lần nữa, ông lại trở về quê để cùng khổ với dân, để suy nghĩ thêm về những chính sách hà khắc của triều đình và thêm quyết tâm đánh đổ triều đình.
Giữa năm 1853, lấy cớ về nuôi mẹ già, ông xin thôi dạy học. Vào tháng 6, tháng 7 năm ấy tại miền Bắc, châu chấu bay mù trời, lúa má bị chúng cắn sạch, nạn đói hoành hành, mọi người đều ta thán.
Theo một số nhà nghiên cứu thì nhân lúc ấy, Cao Bá Quát đã đứng lên tụ tập nhân dân (hoặc tham gia lãnh đạo) bí mật chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa chống Nguyễn tại Hà Nội. Cao Bá Quát liên hệ với những thổ mục người dân tộc ở Tây Bắc là Vũ Kim Thanh, Đinh Công Mỹ, Bạch Công Chân… Rồi dựa vào lòng người còn tưởng nhớ tới nhà Lê, ông suy tôn một người thuộc dòng dõi ấy làm minh chủ đó là Lê Duy Cự, còn tự mình lãnh chức Quốc sư.
Ở nửa đầu thế kỷ 19, cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, là một trong vài cuộc nổi dậy lớn, tuy ngắn ngủi nhưng có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Tuy nhiên, như nhiều cuộc nổi dậy trước và sau nó, mặc dù quyết liệt, nhưng vẫn đi đến thất bại.
Theo nghiên cứu chưa đầy đủ, thì đây cũng chỉ là một cuộc nổi dậy mang đậm tính địa phương riêng rẽ, tổ chức chưa được chu đáo, thiếu một phương thức chiến đấu, thế lực hào mục yếu ớt, vũ khí hãy còn thô sơ,…Vì lẽ ấy, cuộc khởi nghĩa sớm bị đập tan bởi sự trấn áp mạnh mẽ bằng quân sự của triều Nguyễn.
Hoạt động chính trị của Cao Bá Quát là một phần quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của ông. Hoạt động này đã thể hiện tinh thần yêu nước, căm thù giặc, ý chí chống áp bức của ông. Tuy nhiên, do thiếu sự chuẩn bị chu đáo và đường lối đúng đắn, nên khởi nghĩa của ông đã thất bại.
Kết luận
Cao bá Quát là một trí thức xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo. Những cảnh đói rét khổ cực ở khắp nơi hàng ngày day dứt ông làm cho ông phải luôn suy nghĩ mong tìm ra cách giải quyết. Chế độ phong kiến hà khắc, vua quan ngày một tỏ ra bất tài và nguy cơ mất nước cho phương Tây đã khiến ông căm ghét triều đình nhà Nguyễn. Từ chỗ phê phán và phản kháng nó (điều này rất dễ thấy trong thơ văn ông), ông đã tiến tới nổi dậy đánh đổ nó…
Đây cũng phải là sự “nổi loạn”, mà chính là sự phản kháng bắt nguồn từ phẩm chất của ông. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương và cái chết của Cao Bá Quát gây một tiếng vang lớn ở khắp nơi và trong nhiều năm người ta còn xúc động khi nhắc tới Cao Bá Quát. Nhân dân thương tiếc và yêu quý ông, một người có tài năng lỗi lạc, có phẩm chất cao quý, yêu nước, thương dân, nhưng bị chế độ phong kiến vùi dập và huỷ hoại.