Lý Thường Kiệt (1019 - 1105) là một nhà quân sự, nhà chính trị, nhà ngoại giao tài ba xuất chúng trong lịch sử Việt Nam. Ông được đánh giá là một trong những vị tướng vĩ đại nhất của nhà Lý, người đã có công lao to lớn trong việc đánh tan quân xâm lược Tống và bảo vệ độc lập dân tộc.
Về cuộc đời và sự nghiệp của Lý Thường Kiệt
Lý Thường Kiệt (1019 – 1105). Ông vốn họ Ngô, tên Tuấn, tự là Thường Kiệt, quê ở làng An Xá, huyện Quảng Đức (nay làng Cơ Xá, Gia Lâm, Hà Nội). Sau ông cùng gia đình sang ở tại phường Thái Hòa, huyện Thọ Xương, thành Thăng Long nay là Hà Nội. Ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu 5 đời của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập- Hoàng tử trưởng của Tiền Ngô Vương Ngô Quyền.
Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống học hành và làm quan. Thuở nhỏ ông rất thông minh, chăm đọc sách binh thư, chăm luyện tập võ nghệ. Năm ông 13 tuổi (1031) thì người cha của ông đi tuần vùng biên giới Thanh Hoa bị bệnh và mất. Năm 18 tuổi (1036) mẹ của ông cũng qua đời. Khi hết tang, ông được Triều đình bổ vào chức Kỵ mã hiệu úy (một chức quan võ nhỏ trong đội quân cưỡi ngựa của triều đình).
Năm 23 tuổi (1041), vì có vẻ mặt tươi đẹp, vóc người khỏe mạnh cân đối ông được bổ vào ngạch Quân thị (Hoàng môn chi hậu). Vì yêu mến tài năng và đức hạnh của ông, Vua Lý Thái Tổ nhận ông làm con nuôi, từ đó tên ông được đổi thành là Lý Thường Kiệt. Hằng ngày ông ở bên Vua, giúp Vua rất nhiều việc. Vì có nhiều công lao đó đến khi Lý Thánh Tông lên ngôi, ông được phong chức Thái Bảo và được trao cho Tiết việt (cờ tiết và búa phủ Việt - tượng trưng cho quyền thay mặt vua xử lý các công việc ở bên ngoài).
Lý Thường Kiệt làm quan trải thờ ba đời vua là Lý Thái Tông ( 1028 – 1054), Lý Thái Tông ( 1054 – 1072) và Lý Nhân Tông ( 1072 – 1127). Từ một chức hoạn quan nhỏ Lý Thường Kiệt được thăng dần đến chức Phụ Quốc Thái Phó, Dao Thụ Chư Trấn Tiết Độ, Đồng Trung Thư Môn Hạ, Thượng Trụ Quốc, Hà Thái Úy, Tước Khai Quốc Công và được nhận làm Thiên Tử Nghĩa Đệ ( em kết nghĩa của Thiên Tử).
Lý Thường Kiệt qua đời vào tháng sáu năm Ất Dậu (1105) thọ 86 tuổi. khi mất được phong tặng Kiểm hiệu Thái úy bình chương quân quốc trọng sự, Việt quốc công, được lập đền thờ ở nhiều nơi. Điều đáng nói là trước khi qua đời một năm ( năm 1104, tức là năm đã 85 tuổi), Lý Thường Kiệt vẫn còn là một tướng tổng chỉ huy quân đội, đã đánh và đánh thắng một trận rất lớn ở phía Nam đất nước.
Về tài năng và phẩm chất của Lý Thường Kiệt
Lý Thường Kiệt là một nhà quân sự lỗi lạc, có tài thao lược, mưu lược, biết sử dụng binh pháp một cách linh hoạt, sáng tạo. Ông đã có công lớn trong việc xây dựng quân đội nhà Lý, huấn luyện binh sĩ, và tổ chức chiến tranh. Ông là một người lãnh đạo tài tình, khích lệ được tinh thần chiến đấu của quân sĩ, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong toàn dân tộc.
Lý Thường Kiệt là một vị tướng yêu nước, thương dân, có tinh thần trách nhiệm cao đối với đất nước. Ông luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, hết lòng vì dân vì nước.
Lý Thường Kiệt có tầm nhìn chiến lược xa rộng, nhìn nhận đúng đắn tình hình quân sự và biết đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời.
Lý Thường Kiệt là một vị anh hùng dân tộc, một nhà quân sự, nhà chính trị, nhà ngoại giao tài ba xuất chúng của Việt Nam. Ông được nhân dân ta kính trọng và ngưỡng mộ muôn đời.
Những đóng góp to lớn của Lý Thường Kiệt
Lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh tan quân xâm lược Tống trong cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai (1075 - 1077). Các đại công Lý Thường Kiệt đã lập phải kể đến trận đánh Tống kinh thiên động địa cuối năm 1075. Trận đánh này do Lý Thường Kiệt tổng chỉ huy quân Đại Việt vượt biên giới phía bắc đánh các châu phía nam của nhà Tống như: Khâm, Liêm và Ung châu nhằm phá huỷ đường xá, cầu cống, các kho lương thực và vũ khí mà Tống tích trữ để chuẩn bị đánh Đại Việt.
Cuối năm 1076 đầu năm 1077, muốn trả thù nước Đại Việt, triều đình nhà Tống sai Quách Quỳ xuất quân và phối hợp cùng với quân Chiêm Thành và Chân Lạp sang đánh nước Đại Việt. Quân và dân Đại Việt dưới quyền chỉ huy của Lý Thường kiệt đã kiên cường chiến đấu, kìm chân quân xâm lược Tống hàng tháng trước trận tuyến phòng thủ sông Cầu. Quân Tống bị chặn lại ở sông Như Nguyệt (sông Cầu), bị tiêu hao sinh lực, giảm sút tinh thần rồi sa vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Quân Tống đành phải đem quân về đóng ở sông Phú Lương (khúc sông Cầu từ Như Nguyệt trở lên, thời Lý gọi là sông Phú Lương).
Để đỡ hao tổn xương máu của cả hai dân tộc, Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng một cuộc giảng hòa để quân Tống rút quân về nước. Với chiến thắng đó, độc lập chủ quyền lãnh thổ quốc gia Đại Việt được giữ vững, nhân dân được sống thanh bình. Chiến thắng của Lý Thường Kiệt năm 1077 là sự mở đầu cho đường lối kết hợp vừa đánh, vừa đàm để kết thúc chiến tranh trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam.
Lý Thường Kiệt là một nhân vật lịch sử phi thường, một vị anh hùng dân tộc vĩ đại, một nhà quân sự, nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà thơ, nhà văn hóa tài ba xuất chúng của Việt Nam. Ông là một tấm gương sáng cho thế hệ mai sau về lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm và ý chí quật cường trong công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc.