Trong bài thơ Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện:<br>Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu<br>Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái<br>Gót ngựa của Thánh Gióng...

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của phuonganhanh
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
level icon
ruyankkk

04/02/2023

Mở bài
Nêu được vấn đề sẽ triển khai trong bài viết:
+ Đoạn trích thể hiện cái nhìn vừa có chiều sâu vừa mang nét mới mẻ, độc đáo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước từ không gian địa lý, cuộc đời, địa danh... về Đất Nước.
+ Bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên, về truyền thống quý báu, sự nâng niu trân trọng của nhà thơ trước những đóng góp của nhân dân cho đất nước.
Mở bài có thể viết như sau:
Trong dàn hợp xướng về thơ ca kháng chiến chống Mỹ. Bên cạnh một Phạm Tiến Duật trẻ trung, sôi nổi với những lời thơ “lẩm bụi Trường Sơn”; một Nguyễn Duy chân chất, đằm thẳm, mộc mạc, ngọt ngào với những âm điệu lục bát ca dao gọi về; còn là một Nguyễn Khoa Điềm tài hoa, uyên bác, truyền thống mà hiện đại. Nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm, người đọc nhớ ngay đến “Đất Nước ”, mà tiêu biểu là phần mở đầu đoạn thơ thứ hai, khi ông nói về chiều sâu tư tưởng “Đất nước của Nhân dân ”. Qua đoạn thơ, ta cũng thấy được những cảm nhận riêng, độc đáo về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ; thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
+ Đất Nước thuộc phần đầu chương V, trường ca Mặt đường khát vọng; là một trong những đoạn đặc sắc, thể hiện những cảm nhận riêng, độc đáo của nhà thơ về đất nước.
Có thể viết như sau:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm mang cảm xúc suy tư của một người lính, một người tri thức, một nhà thơ nghĩ và viết về đất nước, con người Việt Nam. Trường ca “Mặt đường khát vọng” được viết năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên giữa không khí sôi sục của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bản trường ca ra đời với mục đích thức tỉnh tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm ở miền Nam, khi nhận thức rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ và hướng về nhân dân. Từ đó, khích lệ kêu gọi mọi người đứng lên đấu tranh, hòa nhịp với cuộc chiến đấu của dân tộc. Trích đoạn “Đất Nước ” thuộc phần đầu chương V của bản trường ca. Đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất, thể hiện cảm nhận mới mẻ, độc đáo nhất về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Thân bài
1. Nêu khái quát về bài bút ký và dẫn dắt vào nội dung đoạn trích cần phân tích.
Tham khảo trích vào bài viết cho phù hợp:
“Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân ” — Có lẽ, đây chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến “Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân ” mà nhà thơ gửi gắm vào đứa con tinh thần của mình. Nếu những nhà thơ khác từ thời đại trước đến những năm tháng kháng chiến hào hùng chống Pháp và chống Mỹ đều nhìn đất nước từ khía cạnh khách quan hay định nghĩa đất nước thuộc quyền sở hữu của một triều đại vua chúa thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn đất nước từ cái nhìn rất gần gũi, quen thuộc và gắn liền với những gì thuộc về nhân dân. Bởi lẽ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đẩu của nhân dân, cùng nhân dân đứng lên bảo vệ Tổ quốc, cùng nhân dân cầm súng, cùng nhân dân đấu tranh nên ông thấu hiểu những hy sinh mất mát nhà nhân dân hứng chịu, những khó khăn gian khổ, những mong muốn của nhân dân. Chính vì vậy, đoạn trích “Đất Nước ” nói riêng và trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung đã tập trung thể hiện những gì thuộc về nhân dân. Và nó như một khúc tráng ca để nhân dân hòa vang thể hiện niềm tự hào về những gì Nhân dân đã cống hiến cho Đất Nước.
Dẫn dắt vào phân tích:
Đoạn trích thuộc phần 2 chương V với nội dung: Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước, họ làm ra dáng hình Tổ quốc; làm ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, đời sống tinh thần...; Nhân dân làm ra thần thoại, cổ tích, ca dao dân ca... Và mười hai câu thơ này, nhà thơ đã thể hiện dáng hình Đất Nước được tạo dựng từ những địa danh, thắng cảnh gắn với cuộc sống, số phận, tính cách, tâm hồn của nhân dân (từ tĩnh nghĩa thủy chung, thắm thiết đến sức mạnh bất khuất của con người; từ cội nguồn thiêng liêng cho đến truyền thống hiểu học, non sông gấm vóc tươi đẹp vô ngần...)
2. Phân tích đoạn trích
Phát hiện mới từ không gian địa lý: thiên nhiên đất nước trở nên thiêng liêng, gần gũi hơn khi có sự hóa thân của nhân dân. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thẳng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Sự hóa thân vào những địa danh, thắng cảnh tiêu biểu của Đất Nước in đậm dấu ẩn tâm hồn, lối sống của nhân dân.
+ Biện pháp nghệ thuật liệt kê, kết hợp cùng động từ “góp ” để diễn tả hình ảnh nhân dân đã hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp của Đất Nước. Các danh lam thắng cảnh được liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng của nhân dân.
Ở miền Bắc:
vẻ đẹp tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng chung thủy, son sắt, bền vững: Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái
+ Núi Vọng Phu: hình người vợ chờ chồng ở Đồng Đăng tỉnh Lạng Sơn và nhiều nơi khác trên đất nước ta, nó gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng mà hóa đá ở tỉnh Thanh Hóa.
+ Hòn Trống Mái ở sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa tương truyền do hai vợ chồng yêu nhau hóa thân thành. Nó là sự kết thành từ hai tảng đá giống hình trống mái nằm trên một ngọn núi và cũng xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước ta.
|=> Đó là những vẻ đẹp của tình cảm thủy chung son sắt, tình nghĩa vợ chồng đã trở thành bất tử với mọi thách thức khắc nghiệt của thời gian. Bởi dù nắng mưa, sương gió thì những ngọn núi kia vẫn sừng sững như vậy mà lưu truyền ý nghĩa của nó đến với các thế hệ sau.
Có thể viết như sau:
Ngay từ tám câu thơ đầu, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tư tưởng “Đất nước của Nhân dân ” với những phát hiện mới mẻ về thiên nhiên, đất nước, vẻ đẹp không gian địa lý hiện lên vừa quen, lại vừa lạ, thâm đẫm chât liệu văn hóa dân gian. Quen thuộc, bởi những cái tên như núi Vọng Phu, núi Bút, non Nghiên vốn là những danh lam thắng cảnh đẹp, là niềm tự hào của người Việt Nam. Lạ ở chỗ dưới con mắt của Nguyễn Khoa Điềm, thiên nhiên không chỉ do tạo hóa ban tặng, mà những cảnh sắc tươi đẹp của núi sông hay hình hài đất nước còn được sinh ra từ chính tâm hồn, số phận của nhân dân. Từ đó, đất nước trở thành linh hồn do nhân dân hóa thân vào. Tại đây, biện pháp liệt kê, kết hợp cùng động từ “góp ” như diễn tả trọn vẹn hình ảnh nhân dân đã hóa thân vào những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp của Đất Nước, nhằm tô đậm cho non sông gấm vóc một dải tươi đẹp. Các danh lam thắng cảnh được liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng của nhân dân.
Vẻ đẹp của thiên nhiên, không gian địa lý theo Nguyễn Khoa Điềm trước hết là kết tinh phẩm chất tâm hồn Việt:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho...
Cặp vợ chồng yêu nhau Chồng Mải.
Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái gợi cho ta nhớ đến những câu chuyện sâu nặng về tình nghĩa vợ chồng. Nếu như Núi Vọng Phu ở Đồng Đăng tỉnh Lạng Sơn gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng mà hóa đá thì Hòn Trống Mái ở sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa lại tương truyền do hai vợ chồng yêu nhau hóa thân thành. Nó là sự kết thành từ hai tảng đá giống hình trống mái nằm trên một ngọn núi và cũng xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước ta. Những cuộc chia ly hay bỉ kịch trong tình yêu; khát vọng giữ gìn lòng chung thủy son sắt đã trở thành truyền thuyết bất tử hóa. Từ đó hóa thân thành vũ trụ, thiên nhiên, sừng sững muôn đời, sáng ngời vẻ đẹp mang bản sắc, tâm hồn, tình cảm của con người Việt Nam. Đó là những vẻ đẹp của tình cảm thủy chung son sắt, tình nghĩa vợ chồng đã trở thành bất tử với mọi thách thức khắc nghiệt của thời gian, chúng có thể “vượt qua cả núi, vượt qua cả sông, vượt qua cả những áng mây thiên đường”. Bởi dù nắng mưa, sương gió thì những ngọn núi kia vẫn sừng sững như vậy mà lưu truyền đến các thế hệ sau.
- vẻ đẹp tượng trưng cho truyền thống đánh giặc, gìn giữ đất nước và công cuộc xây dựng, bảo vệ nền kiến thiết nước nhà.
+ Chứng tích “trăm ao đầm để lại ” kéo dài từ huyện Đông Anh sang huyện Sóc Sơn (Hà Nội) qua truyền thuyết người anh hùng làng Gióng cưỡi ngựa đánh giặc n rồi bay về trời.
+ Quân thê núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hy Cương (tỉnh Phú Thọ) nơi đền thờ vua Hùng ngự trị, chính là đàn voi chín mươi chín con quây quần chầu phục quanh đất Tổ.
+ Đó là tượng hình “con cóc, con gà quê hương” cùng góp mình cho Vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh trở “thành danh lam thắng cảnh” được UNESCO công nhận là Di sản thế giới (năm 1994).
Có thể viết như sau:
Hình ảnh đất nước còn được cảm nhận qua truyền thống dựng nước và giữ nước của những người anh hùng:
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương.
Hình ảnh “ao đầm ” vốn là đặc điểm địa hình của thiên nhiên của vùng đồng bằng chiêm trũng, nhưng trong cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nó là dấu tích của thời đại anh hùng với chủ nghĩa yêu nước. Được bất tử hóa qua hình ảnh Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre đánh giặc n, gót ngựa Thánh Gióng đi qua để lại những ao đầm trên hình thể núi sông. Như thế, vẻ đẹp bình dị, mộc mạc của đất nước đã được kỳ vĩ hóa, hoành tráng hóa mang niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Hình ảnh “chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” nói đến mảnh đất địa linh phong kiệt, đất tổ Phong Châu không chỉ có đồi núi hùng vĩ, mà còn thế hiện sự chung sức đồng lòng, nhất trí của nhân dân từ buổi đầu sơ khai dựng nước. Hình ảnh “con cóc, con gà ” thân thuộc trong mỗi ngôi nhà qua trí tưởng tượng phong phủ, bay bổng của nhân dân đã hóa thân thành những đảo giữa một vùng nước mênh mông, để Hạ Long hôm nay thành thẳng cảnh, đi vào tâm thức người Việt và được UNESCO công nhận là Di sản thế giới (năm 1994).
Ở miền Trung: nhà thơ đưa ta về mảnh đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút non Nghiên ” do những cậu học trò nghèo dựng nên - đó là biểu tượng của truyền thống hiếu học.
Xuôi theo chiều dài đất nước, về đến miền Trung nắng gió, nhà thơ đưa ta đến mảnh đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút, non Nghiên ” do những cậu học trò nghèo hiếu học dựng nên. Đó là nơi kết tinh trí tuệ, truyền thống hiếu học của nhân dân ta. Những núi Bút, non Nghiên được hóa thân từ những vật dụng không thể thiếu của những cậu học trò xưa. Chiếc bút và nghiên mực đã được kỳ vĩ hóa, trở nên lớn lao, phi thường đến lạ. Từ đó, mỗi thế hệ sau khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi Bút, non Nghiên lại thấy hình ảnh những cậu học trò nghèo đang miệt mài học tập, “nấu sử sôi kinh ” thành tài. Như thê khát vọng chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức đã in sâu vào vóc dáng núi sông, khắc tạc trong tâm trí người dần nơi đây.
Ở miền Nam:
+ Dòng sông Cửu Long hiền hòa, tươi mát với: “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm ”. Và chính từ dòng sông này đã có biết bao nhiêu tấn thóc, tấn gạo được gieo trồng và được xuất khẩu đi khắp các quốc gia.
+ Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ”, tên đất, tên làng đều mang bóng dáng của nhân dân đã tôn tạo nên nét đẹp văn hóa, truyền thống, để hôm nay và mai sau con cháu đời đời ngưỡng vọng biết ơn.
- Nhân dân - những con người bình dị, vô danh đã hóa thân vào đất nước; mỗi người lặng lẽ góp phần mình làm nên vẻ kỳ thú của thiên nhiên và bề dày của truyền thống.
Có thể viết như sau:
Ở miền Nam, hình thể núi sông còn thơ mộng và thấm đẫm tâm lĩnh của người dân Việt qua dòng sông Cửu Long hiền hòa, tươi mát. “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm ”, câu thơ khắc họa vẻ đẹp đất nước thơ mộng, trù phú. Hơn nữa, hình ảnh đó còn đồng hiện với những con rồng, nhắc đến truyền thuyết những con rồng hóa thân để tạo dòng Cửu Long Giang, chín cửa sông hay chín đầu rồng, từ đó khơi gợi sự hùng vĩ, giàu đẹp của đất nước. Và chính từ dòng sông này đã có biết bao nhiêu tấn thóc, tẩm gạo được gieo trồng và được xuất khẩu đi khắp các quốc gia trên thế giới. Đất đai, ruộng đồng, gò bãi của quê hương xứ sở đã hóa thân của những cái tên, những cuộc đời bình dị của vạn vật thân thương, gần gũi của người dân vô danh. Những người dân với cái tên nôm na, bình dị đánh dấu hình ảnh ông cha ta mang gươm đi mở mang bờ cõi, khai phá phương Nam. Nhân dân thật hồn nhiên khi đem những cái tên rất đỗi dân dã để tạo thành tên đất, tên làng trở thành linh hồn của không gian đất nước với ấp ông Đốc, ông Trang, bà Đen, Bà Điểm. Nhân dân - những con người bình dị, vô danh đã hóa thân vào đất nước; mọi người lặng lẽ góp phần đời mình làm nên vẻ kĩ thú của thiên nhiên và bề dày của truyền thông.
Như vậy, từ Bắc vô Nam dọc khắp dải đất cong cong hình chữ s này, đâu đâu ta cũng thấy sự hóa thân của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh; mỗi cuộc đời đều lặng lẽ góp phần mình làm nên vẻ kỳ thú của thiên nhiên và bề dày của truyền thống. Những điều đặc biệt và kĩ diệu trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đó là có tên những danh lam thắng cảnh cho ta hình dung chúng đang ở vị trí nào, ở miền Bắc hay miền Nam, ở Hưng Yên hay Phú Thọ, ở Mũi Né hay Cà Mau nhưng tuyệt nhiên không có tên của một người nào rõ ràng đế chúng ta hồi tưởng. Điều đó đồng nghĩa với việc tất cả đều từ quần chúng Nhân dân mà ra. Trải qua biết bao năm tháng, họ đã lặng lẽ, bền bỉ, kiên cường, đã tạo dựng cho Đất Nước, đã làm nên đất nước, in dấu ấn sâu đậm trong dáng hình quê hương xứ sở.
4 câu thơ sau: Sự khái quát về Đất Nước với những suy ngẫm có tính triết lý sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chang mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
Dẫn dắt vào phân tích: Xét về cấu trúc đoạn thơ, tứ thơ vận động từ cái riêng đến cái chung, từ cụ thể đến khái quát, từ cảm xúc đến lỉ trí. Sau khi khẳng định nhân dân vô danh đã lẩy cuộc đời mình tạo nên đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo đưa những câu thơ ngọt ngào thể hiện mối quan hệ giữa con người với đất nước trong lối suy ngẫm đầy tính triết lý.
Từ vẻ đẹp thiên nhiên đất nước, tác giả suy ngẫm về vẻ đẹp tâm hồn của con người, của lịch sử truyền thống Việt Nam:
+ Hòn Trống Mái, Núi Vọng Phu gợi ra tình nghĩa thủy chung, son sắt của vợ chồng.
+ Từ dấu ấn “trăm ao đầm ”, đất Tổ Hùng Vương gợi ra truyền thống đánh giặc chống ngoại xâm, tình yêu quê hương đất nước, quyết tâm bảo vệ từng tấc đất.
+ Truyền thống hiếu học, mở mang tri thức luôn được khắc ghi thông qua hình ảnh núi Bút, non Nghiên.
+ Những tên xã, tên làng, tên đường, tên phố ngày nay... đều mang một câu chuyện lịch sử gợi nhắc đó là công ơn của những người đi trước đã hi sinh cả cuộc đời vì vận mệnh dân tộc.
Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên một tầm khái quát mới qua nhận thức của nhà thơ: Đẻ có được một Đất Nước tươi đẹp vô ngần sau bốn nghìn năm là do Nhân dân đã hóa thân vào dáng hình Đất Nước. Nhân dân chính là người đã tạo dựng, đặt tên, đã ghi dấu cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông trên khắp mọi miền đất nước.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lổi sổng ông cha
+ Hai câu thơ đầu khẳng định dáng hình của Nhân dân trong không gian Đất Nước “trên khắp ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước thêm phần tươi đẹp mà còn mang “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”... Nghĩa là nhân dân không chỉ giúp mình tạo danh lam thắng cảnh mà còn góp vào đó những giá trị tinh thần, là phong tục, tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau.
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
+ Hai câu thơ cuối: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”, “núi sông ta ” sở dĩ có được là nhờ “những cuộc đời ” đã hóa thân để góp nên, mà cuộc đời đó không ai khác chính là nhân dân. Nhân dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà con góp cả cuộc đời và số phận.
3. Nhận xét những cảm nhận riêng, độc đáo về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Dẫn dắt chuyển đoạn vào phần nhận xét: “Một cuộc thám hiểm thực sự ở chỗ không phải cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới ”. Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện một đôi mắt mới khỉ cùng là đề tài Đất nước - một đề tài von rất quen thuộc nhưng ông lại có những cảm nhận riêng, mang tính sáng tạo riêng...
về nội dung: Đất Nước được cảm nhận từ cái nhìn chiều sâu và phát hiện mới mẻ: không ai khác, chính nhân dân là người làm ra Đất Nước, họ hóa thân vào dáng hình, lối sống, truyền thống...
về nghệ thuật: với những đóng góp mới mẻ, độc đáo
+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc; sử dụng sáng tạo thể thơ tự do với sự biến đổi linh hoạt của âm hưởng, nhịp điệu; biện pháp liệt kê, trùng điệp...
+ Sử dụng linh hoạt chất liệu truyện kể dân gian, chất liệu văn hóa dân tộc để sáng tạo hình ảnh và thể hiện cách cảm nhận độc đáo về đất nước; cách triển khai ý thơ đi từ cụ thể đến khái quát phù hợp với các suy tưởng chính luận.
+ Ngôn ngữ gần gũi với đời sống mà vẫn mới mẻ; hình ảnh quen thuộc, gợi mở nhiều liên tưởng sâu sắc
Có thể viết như sau:
Nếu như các nhà thơ cùng thời thường tạo ra một khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng đất nước bằng những hình ảnh hoa lệ, thì Nguyễn Khoa Điềm lại tạo ra một đất nước giản dị, cỏ ở trong ta và quanh ta. Đất Nước được cảm nhận từ cái nhìn chiều sâu văn hóa và phát hiện mang tính mới mẻ: Không ai khác, chính nhân dân là người làm ra Đất Nước, họ đã hóa thân vào dáng hình xứ sở, vào lối sống ông cha, vào truyền thống dân tộc, đến “Đất Nước chỉnh là của Nhân dân ”. Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện những sáng tạo riêng của Nguyễn Khoa Điềm trên phương diện nghệ thuật. “Đất nước ” thế hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận và trữ tình, giữa suy tư và cảm xúc đa chiều; trữ tĩnh ở sự phóng khoáng của cảm xúc, sâu lắng như một lời trò chuyện tâm tĩnh giữa anh và em. Tình cảm yêu mến đất nước trở thành đề tài trò chuyện tâm tình giữa anh với em. Suy tưởng ở chỗ nhà thơ đã phát hiện được nhiều đối tượng mới và sâu từ những điều vốn quen thuộc của đất nước. Những phát hiện ấy không khô khan mà ngược lại rất ngọt ngào qua nguồn cảm xúc của nhân vật trữ tĩnh. Nhà thơ vận dụng linh hoạt chất liệu truyện kể dân gian, chất liệu văn hóa dân tộc đế sảng tạo hình ảnh và thể hiện cách cảm nhận độc đáo về đất nước; cách triển khai ý thơ đi từ cụ thể đến khải quát phù hợp với các suy tưởng chính luận. Tính hiện đại trong bài thơ cũng là một đặc sắc nghệ thuật. Điều này thể hiện ở yếu tố suy tưởng, triết lí với thể thơ tự do, những câu thơ co duỗi linh hoạt, thay đổi nhịp điệu và rất ít dựa vào vấn để liên kết. Hình ảnh thơ gần gũi, giản dị, ngôn ngữ thơ mộc mạc, dễ đi vào lòng người đã tạo cho người đọc cảm nhận về đất nước. Tác giả sử dụng đa dạng các biện pháp nghệ thuật: liệt kê, ấn dụ, so sánh, liên tưởng... Tất cả đã tập trung lại tái hiện lên một hình ảnh đất nước thật gần gũi, quen thuộc.
Khẳng định lại vấn đề:
+ Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân ” là đóng góp mới mẻ, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm về đề tài đất nước; qua đó khơi dậy niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước.
+ Đoạn thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm.
Có thể viết như sau:
“Thế giới không phải được tạo lập một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới được tạo lập ”. Điều quan trọng nhất là tác giả phải in đậm được dấu ấn riêng, có cách cảm nhận riêng không trộn lẫn ai. Và với tư tưởng mới mẻ “Đất nước của Nhân dân ”, đề tài đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không những đã khơi dậy niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước mà còn đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của mình trên thi đàn văn học Việt Nam.
Sáng tạo: thể hiện suy nghĩ sâu sắc; có cách diễn đạt mới mẻ.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved