Nhận xét về phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX – đầu XX: - Từ khi bị thực dân phương Tây xâm lược, phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Nam Á đã bùng nổ mạnh mẽ, liên tục và rộng khắp. ( Học sinh nhận xét và đưa ra ít nhất 2 dẫn chứng: 2 điểm) + Ở In-đô-nê-xi-a, nhiều tổ chức yêu nước của trí thức tư sản tiến bộ ra đời. Từ sau năm 1905, nhiều tổ chức công đoàn được thành lập và bước đầu truyền bá chủ nghĩa Mác vào In-đô-nê-xi-a. Năm 1905, công đoàn đầu tiên của công nhân xe lửa được thành lập. Năm 1908, Hội liên hiệp công nhân In-đô-nê-xi-a ra đời. Tháng 5/1920, Đảng Cộng sản ra đời. + Ở Phi-líp-pin, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của Tây Ban Nha diễn ra quyết liệt. Cuộc Cách mạng 1896-1898 bùng nổ dẫn tới sự ra đời nước Cộng hòa Phi-líp-pin, nhưng sau đó lại bị Mỹ thôn tính. + Ở Cam-pu-chia, ngay sau khi vua Nô-rô-đôm kí hiệp ước thừa nhận nền đô hộ của Pháp năm 1863, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân đã nổ ra. Điển hình là cuộc khởi nghĩa do A-cha Xoa lãnh đạo ở Ta Keo (1863-1866) và cuộc khởi nghĩa dưới sự chỉ huy của nhà sư Pu-côm-bô ở Cra-chê (1866-1867). + Ở Lào, năm 1901 nhân dân Xa-van-na-khet tiến hành cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Pha-ca-đuốc. Cũng năm đó, một cuộc khởi nghĩa khác đã nổ ra ở cao nguyên Bô-lô-vẹn, lan sang cả Việt Nam và kéo dài đến năm 1907 mới bị dập tắt. + Ở Việt Nam, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra liên tục quyết liệt. Bên cạnh phong trào Cần Vương, làn sóng đấu tranh chống Pháp diễn ra ở khắp nơi, mà tiêu biểu là phong trào nông dân Yên Thế (1884-1913). - Các phong trào lần lượt thất bại vì lực lượng của bọn xâm lược mạnh, chính quyền phong kiến ở nhiều nước đầu hàng làm tay sai cho đế quốc, các cuộc đấu tranh lại thiếu tổ chức và thiếu sự lãnh đạo chặt chẽ, không có đường lối đấu tranh. (1 điểm) Tóm tắt phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc tiêu biểu của nhân dân Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Ngay khi bị thực dân xâm lược, nhân dân các nước Đông Nam Á đã kiên quyết đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Thực dân thi hành chính sách cai trị hà khắc. - Điểm chung của chính sách cai trị thuộc địa của thực dân phương Tây là: Vơ vét tài nguyên, không mở mang công nghiệp, tăng các loại thuế, mở đồn điền, bắt lính, đàn áp phong trào yêu nước. - Cuộc đấu tranh chống xâm lược giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Đông Nam Á phát triển liên tục, rộng khắp. + Ở In-đô-nê-xi-a: Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhiều tổ chức yêu nước của trí thức tư sản tiến bộ ra đời. Năm 1905 nhiều tổ chức công đoàn được thành lập và truyền bá chủ nghĩa Mác vào In-đô-nê-xi-a. + Ở Phi-líp-pin: Cuộc cách mạng năm 1896-1898 bùng nổ đánh dấu sự ra đời của nước Cộng hòa Phi-líp-pin. Sau đó Mỹ nhảy vào, phong trào kháng chiến chống Mỹ phát triển song thất bại. + Ở Cam-pu-chia: Năm 1863-1866, A-cha-xoa lãnh đạo khởi nghĩa ở Ta Keo. Năm 1866-1867, Pu-côm-bô chỉ huy khởi nghĩa ở Cra-chê. + Ở Lào: Năm 1901, Pha-ca-đuốc lãnh đạo nhân dân Xa-van-na-khet đấu tranh vũ trang; khởi nghĩa ở cao nguyên Bô-lô-ven (1901-1907). + Ở Miến Điện: Năm 1885, nhân dân kháng chiến anh dũng chống thực dân Anh. + Ở Việt Nam: Có phong trào Cần Vương, khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884-1913). Các phong trào đấu tranh chống xâm lược, giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á thất bại vì chưa có đường lối cứu nước đúng đắn. Câu 1:Cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật có sức cuốn hút các nước châu Á noi theo, trong đó có các sĩ phu yêu nước Việt Nam, bởi vì: - Cuộc Duy tân Minh Trị đã đưa nước Nhật từ một nước phong kiến lạc hậu thành một nước tư bản phát triển, vì thế Nhật thoát khỏi sự đô hộ của các nước đế quốc phương Tây, cho nên nhiều nước châu Á muốn noi theo. - Đầu thế kỷ XX, các sĩ phu yêu nước Việt Nam, tiêu biểu là cụ Phan Bội Châu muốn noi theo con đường của Nhật Bản để canh tân đất nước, bằng chủ trương Đông du, đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật học.