01/12/2023

01/12/2023
01/12/2023
Bài thơ Không chồng mà chửa là một bài thơ khá nổi tiếng của Hồ Xuân Hương. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều băn khoăn và trăn trở.
Đúng là cần phải đặt bài thơ Không chồng mà chửa trong bối cảnh sinh quyển xã hội phong kiến, không chỉ luật lệ làng xã mà ngay cả người trong gia đình, gia tộc, họ hàng, bố mẹ đều khinh thị, tạo áp lực lên người phụ nữ. Trong hai câu ở phần đề, bỏ qua tất cả, người “Cả nể” ở đây chỉ độc thoại, tâm tình với chính mình và với chàng. Nàng tự biết, tự nhận mình “cả nể” nên hóa thành “sự dở dang”. Nhưng nàng không đẩy “sự” ấy thành sự kiện, sự đời, thành đường cùng và tấn bi kịch mà chỉ coi đó là nỗi niềm, nỗi buồn thương, nỗi đau tâm sự, tâm tình, mong được thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ: Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng? Câu hỏi đặt ra với chàng, hai lần nhắc đến chàng, mà thật nhẹ nhàng, ân tình, khơi gợi nghĩa tình.
Hai câu ở phần thực chủ ý vận dụng lối chiết tự chữ Hán, chơi chữ, thả chữ, “thả lá thơ chơi” pha chút bỡn cợt. Nghĩa thơ dường như trung tính, không nhằm lên án, trước sau chỉ trình bày một hiện thực, một sự thật, một cảnh trái ngang, bất hợp lý, bất thường, nghịch cảnh, tinh nghịch. Có thể thấy hai câu thơ đăng đối đã khéo phê phán và tinh tế trong cách bỡn cợt, rỡn vui cô nàng ăn cơm trước kẻng: Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,/ Phận liễu sao đà nảy nét ngang? Mở đầu hai câu thơ đều là hai từ gốc Hán bác học, hàn lâm, uy nghiêm, chuẩn mực, quan phương (Duyên thiên… Phận liễu…) lại được diễn dịch, thông diễn, vừa nêu giả định vừa chất vấn kết quả bằng các chữ Nôm, tiếng thuần Việt, bình dân, bình dị. Hình thức tự sự, diễn giải pha tạp câu chữ đã tạo nên sắc thái nghịch dị, hài hước, vui vẻ, giản lược đi sự nghiêm trọng, căng thẳng. Thêm nữa, lối phối hợp cách dùng từ mang tính giả định về một sự khẳng định “chưa thấy” (NHÂN) đối lập với câu hỏi phản vấn về một sự thật nhãn tiền đã rồi “sao đà” (QUẢ) càng gia tăng mức độ sắc thái lỗi nhịp, lệch pha, lệch chuẩn của đương sự.
Đến hai câu thơ ở phần luận là sự phân thân của hai cảnh đời, hai tình huống, hai nẻo đường, hai trạng thái tâm lý. Trước sau nàng vẫn một lời trọng thị, ân cần; một câu hỏi chỉ để tôn cao, đắp bồi, tin cậy: Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? và một bản lĩnh, một lời thề, một ý thức tự nhiệm, tự dấn thân và tự chịu trách nhiệm: Mảnh tình một khối thiếp xin mang… Dân gian có câu: Nếu nên thì thiếp với chàng,/ Không nên ta lại người làng với nhau. Ở đây người con gái đã một lần, một tháng, một xuân, một thời tay ấp vai kề “Cả nể” trước sau vẫn trọn vẹn nghĩa tình, vẫn giữ ân tình “chàng - thiếp”. Lại vẫn tiếp tục là một phong cách chơi chữ ỡm ờ kiểu Hồ Xuân Hương (chửa - mang) với sự đăng đối của “nhớ chửa” (từ “chửa” vừa là từ tình thái, đặt cuối câu biểu thị nghi vấn vừa nhắc nhớ “Cái nghĩa” hiển ngôn vừa ẩn ý về sự có mang, bụng mang dạ chửa) với “xin mang” (từ “mang” vừa là động từ chỉ trạng thái mang theo, đem theo, vừa thể hiện sự chung thủy với “Mảnh tình” vừa hàm nghĩa sự mang thai, có mang, có chửa), vừa là lời thề khẳng định pha chút hãnh diện trong việc gìn giữ báu vật của đôi mình và riêng mình.
Tiếp đến hai câu kết, Hồ Xuân Hương đẩy cao bản lĩnh dân gian, tinh thần đối phó với cấm kỵ, hóa giải những áp đặt phi nhân tính, cực đoan Không chồng mà chửa mới ngoan,/ Có chồng mà chửa thế gian sự thường rồi chuyển hóa, nâng cao thành tiếng nói thách thức, bất cần, bất chấp và thách đố: Quản bao miệng thế lời chênh lệch,/ Không có, nhưng mà có, mới ngoan!... Vượt lên và bất chấp dư luận, miệng thế gian, người “Cả nể” kín đáo, tinh tế, tự tin trong cách biện hộ, xưng danh, khẳng định mình: Không có (chồng), nhưng mà có (con), thế mới ngoan (thuận, giỏi, tài). Cao hơn tất cả là bản lĩnh chủ thể, niềm tin vào nhân tính và quyền sống con người đã tạo nên ý nghĩa phổ quát, vượt thời gian cho một bài thơ ngắn gọn.
Bài thơ Không chồng mà chửa của nữ sĩ Hồ Xuân Hương có số phận riêng và làm nên lịch sử tiếp nhận riêng. Dưới thời phong kiến, đó là tiếng nói cảm thông, cao cả, vị tha, đầy bản lĩnh của người phụ nữ dám chịu và biết chịu trách nhiệm với chính mình. Bước sang thời hiện đại và thế kỷ 21, từ góc độ tiếp nhận nhân học, văn học giới và sinh quyển văn hóa, bài thơ tiếp tục tỏa sáng, thức tỉnh lương tâm, mở ra những chiều kích mới phù hợp thời đại mới, con người và cuộc sống mới. Trên tất cả, bài thơ có ý nghĩa vượt thời gian, cập nhật thời cuộc, vươn tới bài học ứng xử nhân văn, hướng thượng và bản lĩnh làm người cho giới nữ và mọi con người trên cõi nhân gian.
01/12/2023
"Không chồng mà chửa" là một bài thơ của nữ nhà thơ Hồ Xuân Hương, một trong những tác phẩm nổi tiếng và gây tranh cãi của bà. Bài thơ này không chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học mà còn mang trong mình nhiều ý nghĩa sâu sắc về xã hội và giới tính. Dưới đây là một phân tích về bài thơ này:
"Không chồng mà chửa" là một bài thơ đầy hài hước và mỉa mai, nói về việc một người phụ nữ mang bầu mà không có chồng. Bài thơ này được viết vào thế kỷ 19, thời kỳ mà xã hội Việt Nam còn rất truyền thống và đặt nặng giá trị gia đình. Trong bối cảnh đó, việc một người phụ nữ mang bầu mà không có chồng được coi là một vi phạm đạo đức và xã hội.
Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương đã sử dụng ngôn ngữ hài hước và mỉa mai để đưa ra một cái nhìn phản biện về những quy định xã hội đối với phụ nữ. Bà cho rằng việc một người phụ nữ mang bầu mà không có chồng không phải là một tội lỗi, mà là một sự tự do cá nhân và quyền lựa chọn của phụ nữ.
Bài thơ "Không chồng mà chửa" cũng đề cập đến việc xã hội đánh đồng giữa việc có con và việc có chồng. Hồ Xuân Hương cho rằng việc có con không nhất thiết phải có chồng, và phụ nữ cũng có thể tự mình quyết định về việc sinh con. Bà muốn nhấn mạnh rằng phụ nữ không nên bị ràng buộc bởi những quy định xã hội và phải được tự do lựa chọn con đường của mình.
Tuy nhiên, bài thơ cũng gây tranh cãi và có thể bị hiểu lầm. Một số người cho rằng bài thơ này khích bác truyền thống và đạo đức xã hội, trong khi một số người khác cho rằng nó thể hiện sự phóng đại và châm biếm quá mức. Điều này cho thấy sự phức tạp và đa chiều của bài thơ và ý nghĩa mà nó mang lại.
Tóm lại, bài thơ "Không chồng mà chửa" của Hồ Xuân Hương là một tác phẩm văn học đặc biệt và gây tranh cãi. Nó đưa ra một cái nhìn phản biện về quy định xã hội đối với phụ nữ và khẳng định quyền tự do lựa chọn của phụ nữ trong việc sinh con. Bài thơ này là một lời nhắc nhở về sự đa dạng và quyền tự do cá nhân trong xã hội.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời