
11/12/2023
11/12/2023
Tình yêu là những gì thiêng liêng nhất, đẹp nhất của cuộc sống này mà loài người may mắn được tạo hóa ban tặng. Bởi nó là thứ vô giá, nên không phải ai cũng dễ dàng có được. Trong xã hội phong kiến, bao người khao khát có được tình yêu, chỉ mong mỏi một điều giản đơn rằng được ở cạnh người mình yêu, để rồi đối mặt với hiện thực là không thể. Những con người ấy chỉ biết âm thầm quan sát, dõi theo bước chân của người yêu và luôn cố gắng vượt qua mọi trắc trở để giành lại hạnh phúc của mình. Đó cũng chính là chủ đề và nội dung chính của truyện thơ "Lời tiễn dặn" của dân tộc Thái, truyện đã bộc lộ rõ nét tâm trạng đau khổ, bất lực, ngậm ngùi của một chàng trai khi tiễn bước người yêu về nhà chồng, và khao khát cùng nhau vượt bao sóng gió để được đoàn tụ bên nhau.
Truyện thơ của các dân tộc chính là một câu chuyện dài kể qua lời thơ, phản ánh cho ta hiểu được nhiều phong tục tập quán, cũng như lối suy nghĩ, tình cảm của người đồng bào thiểu số. Tiễn dặn người yêu,được dịch cụ thể thành 1846 câu thơ,rất nổi tiếng,kể lại câu chuyện tinh yêu- hôn nhân qua lời của 2 nhân vật chính, trong câu chuyện có nhiều diễn biến tương ứng như mỗi quãng đường thăng trầm trong tình yêu của họ bao gồm cả những khát vọng hạnh phúc, nỗi đớn đau khi tình yêu bị chia lìa và cuộc đấu tranh kiên trì, quyết liệt của hai người để bảo vệ tình yêu,ta phải đặt mình vào trong tác phẩm một cách chân thành mới mong hiểu được biết cảm thông được với những biểu hiện mong ngóng người yêu ,cử chỉ ân cần, âu yếm và lời thề nguyền son sắt giữ trọn tình yêu của chàng trai , nó nằm trong đoạn trích Lời tiễn dặn. Đoạn trích này đặc biệt hoàn toàn là lời của chàng trai, cùng tâm trạng đau đớn trên đường tiễn cô gái về nhà chồng, phải chứng kiến cảnh cô bị chính người chồng đánh đập, hình ảnh cô gái hiện lên gián tiếp trong lời nói chân thành của anh.
Mỗi cánh rùng nàng đi qua đều là một không gian biểu cảm tạo ra cái cớ để mong có cơ hội gặp người yêu :
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông.
Từ đầu đoạn trích, liên tiếp các từ ngoảnh lại, ngoái trông, đau nhớ, ngồi chờ, ngồi đợi,… được sử dụng dồn dập, liên tiếp đã thể hiện rõ nỗi lòng đau khổ, nhớ thương, quyến luyến của cô gái. Điều đặc biệt là hình ảnh cô gái lại hiện lên qua cái nhìn, tâm trạng của chàng trai giống như qua một thước phim quay chậm đến từng chi tiết. Điều này chứng tỏ chàng trai đã âm thầm quan sát cô gái với tất cả sự trìu mến, xót thương. Họ đã hiểu nhau đến từng hành động và ý nghĩ. Không gian núi rừng bình dị, quen thuộc của đồng bào Thái được miêu tả trực tiếp như một tấm phông rộng lớn cùng chia sẻ, đồng cảm với lòng người. Chàng trai đã tới vì dường như họ đã ước hẹn với nhau và như lời chàng giãi bày :
Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi ;
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi.
Mở đầu đoạn trích, chàng trai đã âu yếm gọi cô gái là “người đẹp anh yêu”, “anh yêu em”. Cách xưng hô, cách gọi đậm chất trữ tình, đặc trưng cho lời ăn tiếng nói của đồng bào Thái và mang sắc thái trữ tình sâu sắc. Vẻ đẹp của người con gái Thái được miêu tả bàng một nét phác hoạ chính xác hết sức tài tình : “Xin hãy cho anh kề vóc mảnh” bởi ai đã từng tiếp xúc với người phụ nữ Thái hẳn sẽ ấn tượng với dáng vóc mảnh mai có phần kiêu sa của họ. Truyện thơ khác với các thể loại tự sự văn xuôi ở ưu thế tả người, tả cảnh, tả tình, ở phần khác của truyện thơ này có một số dòng miêu tả vẻ đẹp của người con gái : “Ngón tay thon lá hành – Đuôi mắt dài như mắt lá trầu xanh”. Chính đoạn thơ này đã trở thành điểm nhấn và là cảm hứng tạo nên đầu đề của truyện thơ Tiễn dặn người yêu. Vì chỉ ở thời điểm này, tình yêu mới bộc lộ được hết sắc độ của nó, với yêu thương, đớn đau, tuyệt vọng và quyết tâm không gì lay chuyển. Mặc dù cô gái đã có con với người chồng mà cô không yêu nhưng điều đó khống làm giảm tình yêu, sự trân trọng của chàng trai dành cho cô. Anh vẫn nựng con của người yêu âu yếm như nựng con của chính mình :
Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn.
Có thể thấy sự nhân ái, lòng vị tha nồng ấm tình yêu trong trái tim người đàn ông Thái cao thượng. Tình yêu của chàng trai có độ bền vững qua thời gian, ngay cả khi cô đã tay bồng, tay mang. Kết thúc phần 1 vang lên điệp khúc tình yêu vói lời thề nguyền, ước hẹn:
Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về,
Đợi chim tăng ló gọi hè.
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già.
Thời gian mùa hạ, mùa đông trong câu thơ trên mang ý nghĩa biểu tượng, tương đồng với tuổi thanh xuân sôi nổi, tươi đẹp thời trẻ và tuổi già tàn phai, héo úa (goá bụa về già). Lời thề nguyền của chàng trai thật chân thành, cụ thể. Trong nhiều đoạn khác của truyện thơ luôn vang lên điệp khúc thề nguyền cảm động như thế và hơn thế.
Cử chỉ, hành động và tâm trạng của chàng trai lúc ở nhà chồng của cô gái Chàng trai an ủi, động viên khi cô gái bị nhà chồng hành hạ, và một lần nữa khẳng định sự chung thuỷ son sắt trong tình yêu. Để giữ lời thề nguyền, quyết bảo vệ tình yêu và ước vọng được đoàn tụ cùng người yêu, nàng tuy về nhà chồng nhưng cố tình phản kháng lại sự xếp đặt của số mệnh, giả bộ ương bướng, ngớ ngẩn, vụng về để cho nhà chồng chán mình mà đuổi về bằng những việc làm : “Rửa bát xóc cả rổ – Rửa ốc rửa từng con”. Người phụ nữ về nhà chồng phải ăn cơm thừa canh cặn, phải làm việc cực nhọc lại bị hành hạ, ngược đãi đủ đường. Trước phần 2 của đoạn trích là cảnh cô gái bị nhà chồng đánh ngã lăn quay bên cối gạo. Đoạn đầu của phần 2 miêu tả những hành động, cử chỉ ân cần, chăm sóc, lo lắng thuốc thang của chàng trai dành cho cô gái. Lời nói của chàng thật dịu dàng, chan chứa xót thương :
Dậy đi em, dậy đi em ơi !
Dậy rũ áo kẻo bọ,
Dậy phủi áo kẻo lấm !
Đầu bù anh chải cho,
Tóc rối đưa anh búi hộ !
Anh chặt tre về đốt gióng đầu,
Chặt tre dày, anh hun gióng giữa,
Lam ống thuốc này em uống khỏi đau.
Tình yêu của chàng trai thật chân thành, dịu dàng, đằm thắm, không chỉ thể hiện ở những lời thề nguyền mà biểu hiện cụ thể qua hành động và lời nói ân cần, tha thiết khiến người nghe xiết bao cảm động. Những hình ảnh như : “Tơ rối đôi ta cùng gỡ – Tơ vò ta vuốt lại quay guồng” mang ẩn ý dẫu hoàn cảnh khó khăn thế nào nếu đồng lòng củng có thể giải quyết ổn thoả :
Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,
Về với người ta thương thuở cũ.
Trong thơ ca dân gian của người Thái, người Mông hay nhắc đến cái chết. Đó là một thủ pháp nghệ thuật để biểu hiện ý chí quyết bảo vệ tình yêu đến cùng. Cái chết là giới hạn cuối cùng của thử thách, nhưng “cái chết” cũng chỉ là cách biểu hiện quyết tâm (thực chất người trong cuộc không nghĩ đến cái chết và quả thực trong truyện này hai người đã quyết sống một cách mạnh mẽ và họ đã tìm lại được tình yêu): Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song.
Phương pháp so sánh được sử dụng đậm nét trong phần kết của đoạn trích. Hình ảnh so sánh được chọn lọc đa dạng, biểu hiện phong tục, bản sắc văn hoá tinh thần, cảnh sắc thiên nhiên dân tộc Thái:
Đôi ta yêu nhau, tình Lú – Ủa mặn nồng,
Lời đã trao thương không lạc mất;
Như bán trâu ngoài chợ,
Như thu lúa muôn bông.
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.
Toàn bộ đoạn trích là lời tiễn dặn người yêu, hành động chăm sóc ân cần, xót xa thương cảm và âm vang điệp khúc nguyện thề giữ trọn tình yêu. Kết thúc truyện thơ Tiễn dặn người yêu là một kết thúc có hậu theo truyền thống của văn học dân gian: ước mơ thành sự thật. Hai người đoàn tụ, làm lại cuộc đời trong tĩnh yêu bất diệt. Chàng trai đã giữ đúng lời nguyện ước của mình “Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già”. Con người đã vượt lên trên số phận khắc nghiệt bởi những hành động tích cực đáng trân trọng, bởi lòng chung thuỷ, sự cao thượng và sức mạnh tình yêu chân chính.
Lời tiễn dặn của chàng trai thể hiện một tình yêu lãng mạn, thấm đượm vẻ đẹp huyền bí và hấp dẫn của phong tục, tín ngưỡng và hơn hết thảy là tâm hồn người đàn ông Thái đem đến cho khổ thơ một ấn tượng đặc biệt khó quên. Người Thái có tục hoả táng, muốn cho thân xác cháy đượm, linh hồn được siêu thoát, cần có hơi hương của người thân yêu nhất. Bởi thế, mặc dù nhận thức được hoàn cảnh, chàng vẫn gắn bó thuỷ chung. Chàng muốn gần “kề vóc mảnh”, được có hơi hương người yêu trong phút chia tay bịn rịn này để nếu có chết hồn cũng không bị cô đơn :
Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,
Quấn quanh vai ủ lấy hương người,
Cho mai sau lửa xác đượm hơi,
Một lát bên em thay lời tiễn dặn!
Sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình. Hình ảnh cô gái được hiện lên rõ nét qua quan sát và tâm trạng của chàng trai trên đường tiễn dặn (thái độ chăm sóc ân cần của chàng trai với cô gái ở nhà chồng (ở phần 2) được khắc hoạ rõ nét. Sự đan xen giữa kể sự kiện và miêu tả cảnh vật, tâm trạng nhân vật là ưu thế nổi bật của truyện thơ.
Các cấu trúc câu lặp lại, lối sử dụng điệp từ, lấy thiên nhiên làm đối tượng biểu đạt là đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong đoạn trích. Truyện thơ của dân tộc Thái sử dụng phương pháp trùng điệp như một phương pháp phổ biến, đặc thù. Một hành động, một tâm trạng ít khi chỉ được diễn tả bằng một hình ảnh mà luôn có sự lặp lại của nhiều hình ảnh theo một cấu trúc ngữ pháp nhằm khắc hoạ sâu sắc nội dung diễn tả. Điều đó tạo tính chất phô diễn, giãi bày đậm chất trữ tình đồng thời tạo sự cân đối, nhịp nhàng, hài hoà về nhạc điệu.
Vừa đi vừa ngoảnh lại,
Vừa đi vừa ngoái trông,
Chân bước xa lòng càng đau nhớ.
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông.
Lấy thiên nhiên để so sánh, để giãi bày tâm trạng, nên thiên nhiên thân thuộc của núi rừng Tây Bắc tràn vào lời ca: Rừng cà, rừng ớt, tháng Năm lau nở, nước đỏ cá về, như bán trâu ngoài chợ, như thu lúa muôn bông,… Đại từ nhân xưng “người đẹp anh yêu”, “anh yêu em”, “đôi ta yêu nhau”; các hô ngữ, mệnh lệnh thức “xin hãy”, “dậy đi em”, “hỡi gốc dưa yêu”,… tăng tính trữ tình.
Lời tiễn dặn khẳng định tình yêu chân thành, sâu sắc bền bỉ của chàng trai đối với cô gái dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Đoạn thơ cũng đồng thời là lời phản kháng mạnh mẽ của hai nhân vật trong tác phẩm nói riêng, và của các cặp đôi dân tộc Thái khi xưa luôn khát vọng tự do yêu đương, sống hạnh phúc với người mình yêu thương.
22/11/2024
11/12/2023
Longhhhf :
Đoạn trích "Tiễn dặn người yêu" là một tác phẩm văn học nổi tiếng của nhà văn Nam Cao. Bài văn này mang tính chất nghệ thuật cao và đã góp phần xây dựng nên tên tuổi của tác giả trong văn học Việt Nam. Trong bài viết này, tôi sẽ phân tích và đánh giá về chủ đề và những nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích này.
Chủ đề chính của "Tiễn dặn người yêu" là tình yêu và cuộc sống. Tác giả dùng lời tiễn biệt để gửi gắm những lời khuyên, lời chúc và lời chia tay đầy tình cảm tới người yêu. Chủ đề này đã đề cao tình yêu và sự quan tâm của nhân vật chính đối với người yêu, đồng thời cũng thể hiện sự lưu luyến và đau buồn trong lúc chia tay.
Một nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích này là cách tác giả sử dụng ngôn ngữ để tạo nên cảm xúc và hình ảnh sâu sắc. Từ ngữ được chọn lọc tỉ mỉ, sử dụng các từ ngữ tươi sáng, tình cảm và mềm mại để thể hiện tình yêu và lưu luyến. Sự tưởng tượng phong phú và khả năng miêu tả tinh tế của tác giả đã tạo nên những hình ảnh sống động trong tâm trí người đọc.
Ngoài ra, "Tiễn dặn người yêu" cũng thể hiện sự tinh tế và sự nhạy cảm trong cách xây dựng câu chữ và câu văn. Tác giả đã sử dụng các câu chữ ngắn gọn, nhưng mang ý nghĩa sâu sắc và tác động mạnh mẽ. Câu văn được xây dựng một cách chặt chẽ và tinh tế, tạo nên nhịp điệu và cảm giác mượt mà khi đọc.
Cuối cùng, giọng điệu của "Tiễn dặn người yêu" mang tính nhân văn cao và sự chân thành. Tác giả đã truyền đạt thông điệp yêu thương và quan tâm đến người đọc, tạo nên tình cảm gần gũi và sâu sắc. Điều này làm cho đoạn trích trở nên đáng nhớ và gắn kết với người đọc.
Đoạn trích "Tiễn dặn người yêu" của nhà văn Nam Cao là một tác phẩm văn học tuyệt vời, với chủ đề về tình yêu và cuộc sống được thể hiện một cách tinh tế và sâu sắc. Những nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích này bao gồm sự sử dụng ngôn ngữ tinh tế, cách xây dựng câu chữ và câu văn chặt chẽ, giọng điệu nhân văn và chân thành. Tác phẩm này đã góp phần làm nên tên tuổi của tác giả và trở thành một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của văn học Việt Nam.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời