1Phân tích nội dung và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ duyên của tác giả xuân diệu

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Ẩn danh

Làm sao để có câu trả lời hay nhất?

  • Luôn có GIẢI THÍCH các bước giải
  • Không copy câu trả lời của Timi
  • Không sao chép trên mạng
  • Không spam câu trả lời để nhận điểm
  • Spam sẽ bị khóa tài khoản
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

27/02/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Bài thơ "Duyên" của tác giả Xuân Diệu thể hiện khung cảnh mùa thu đẹp đẽ, thơ mộng, tinh khôi và tươi mới. Bức tranh thiên nhiên qua cái nhìn của những người trẻ tràn đầy nhiệt huyết, yêu đời, yêu người. Nội dung chính của bài thơ là sự miêu tả về cảnh một buổi chiều thu lãng mạn, khi ánh hoàng hôn rực rỡ chiếu sáng lên bờ cỏ đường quê. Phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu trong bài thơ này được thể hiện qua việc ông sử dụng ngôn ngữ tinh tế, mượt mà để diễn đạt cảm xúc và hình ảnh. Ông biết cách kết hợp từ ngữ để tạo ra những bức tranh thi vị, gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc sâu lắng về vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu. Tóm lại, bài thơ "Duyên" của Xuân Diệu không chỉ mang lại cho người đọc cái nhìn lãng mạn về mùa thu và thiên nhiên mà còn là minh chứng cho bản lĩnh nghệ thuật xuất sắc của ông trong việc diễn đạt cảm xúc và gợi lên hình ảnh sống động.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
luongnguyen12

27/02/2024

Câu trả lời uy tín

Xuân Diệu đã viết về mùa xuân với tất cả sự say đắm, nồng nàn:

… “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần…
… Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”…

Thi sĩ cũng đã đến với mùa thu trong bâng khuâng, man mác. Viết về mùa thu, Xuân Diệu có một lối nói riêng đầy thi vị, tứ thơ mới mẻ, cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cái hồn thu của đất trời, quê hương xứ sở. “Thơ duyên” là một bài thơ thu độc đáo nhận diện cảnh thu, tình thu qua tâm hồn thơ mộng của một chàng trai đa tình và tài hoa lãng mạn.

“Thơ duyên” – một thi đề rất thơ. Cái “duyên” được thi sĩ nói đến là sự tương giao nhiệm mầu của vũ trụ, thiên nhiên và con người, trước hết là những chàng trai, cô gái “hồn xanh như ngọc bích”.

Một buổi chiều thu tuyệt đẹp – “chiều mộng” – êm ái, nhẹ nhàng như ru, tạo vật như đang “hóa thơ trên nhánh duyên”. Nhành cây mềm mại đung đưa duyên dáng theo làn gió thu nhẹ giữa sương khói tà dương. “Con gió xinh thì thào trong lá biếc” (“Vội vàng”), cả một trời thu “nơi nơi động tiếng huyền”.

Tiếng nhạc, tiếng đàn du dương, dịu ngọt như ru hồn người vào cõi mộng. Tiếng gió hoà điệu với tiếng chim ríu rít. Trên ngọn me “cặp chim” vừa chuyền cành vừa hót, biết bao âu yếm và yêu thương. Cây me cũng như cây sấu là hình ảnh thân thuộc của đường phố cổ Hà Nội.

Ta như được sống lại phố cũ yêu thương của đất Tràng An hơn nửa thế kỉ trước. Đã từng biết “khúc nhạc thơm”; “khúc nhạc hường”, giờ đây ta lại được thưởng thức “tiếng huyền” của buổi “chiều mộng”:

“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đồ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”.

Cảnh thu có gió reo, chim hót. Còn có trời thu xanh trong, đẹp như ngọc; tất cả màu xanh ấy của trời thu như “đổ” xuống, như tràn qua muôn lá, cỏ cây ánh ngời lên sắc ngọc với trời thu, sắc ngọc ấy ai có thể quên? Sau này, thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng viết trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”… Màu ngọc của lá cũng là sắc thu làm nên cái hồn thu.

Khổ một nói đến gió, cây và cặp chim chuyền – cảnh vật hòa hợp tương giao, gắn bó; cái “duyên” ấy được cảm nhận qua tâm hồn một thi sĩ hào hoa, đa tình . Khổ hai nói về con đường và trái tim “rung động nỗi thương yêu”.

“Nhỏ nhỏ”… “ xiêu xiêu”… “lả lả” – bây nhiêu nét vẽ tinh tế hiện lên trên một gam màu vàng nhạt của ngày thu tàn “nắng trở chiều”. Hồn thu của bức tranh quê gợi một nỗi buồn đẹp. “Buổi ấy”, trái tim “ta” xao xuyến, “rung động” một tình thu. Thi sĩ đi giữa đất trời, lắng nghe tiếng đập nhẹ của con tim, tâm hồn rộng mở giao hòa đi vạn vật, với con người, một thiếu nữ đang nhẹ bước trên đường:

“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu”.

“Em” và “anh” cùng dạo bước trên đường. “Em” bước đi “điềm nhiên”, trông tự nhiên, hồn nhiên, duyên dáng. Anh cũng đang say sưa ngắm cảnh đất trời, bước chân “lững đững” – thong thả, ung dung. Cuộc ngẫu gặp của đôi lứa thanh tân, tưởng “vô tâm” mà hình như đã có cái “duyên” trời sắp sẵn. Chẳng hò hẹn gì mà nhiều bâng khuâng!

“Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần”.

Cặp câu song hành bình đối nhiều ý vị “Anh với em” đẹp như một cặp vần trong “bài thơ dịu”. Cặp vần ấy ngân lên “rung động nỗi thương yêu”. Một so sánh độc đáo nói lên cái “duyên” lứa đôi:

“Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần”.

Cảnh vốn đẹp, giờ thêm người đẹp, sự giao hòa, giao cảm càng muôn phần tăng lên, sắc thu trong sáng, tình thu thanh khiết mơ màng. Bức tranh thu được dệt thêu bằng cái duyên của sự sống và một tình yêu rạo rực, xôn xao. Đúng như nhà văn Hoài Thanh đã nhận xét: “Xuân Diệu say đắm cảnh trời… khi vui, khi buồn đều nồng nàn, da diết…”

Khổ bốn nói về cảnh thu trên một không gian rộng và lạnh. Một áng mây chiều và một cánh cò thân thuộc của đồng quê. Không phải là mây xám. Cũng không phải “Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi” (“Lầu Hoàng Hạc” – Thôi Hiệu). Mà là mây biếc, mây tuyệt đẹp.

Hai chữ “về đâu” đầy gợi cảm. Hỏi mây hay hỏi nàng thiếu nữ? Cảnh vừa thực vừa mộng, nhiều man mác, bâng khuâng. Câu thơ “Con cò trên ruộng cánh phân vân” là một sáng tạo rất độc đáo của Xuân Diệu. Hình tượng thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong vị Đường thi và thơ mới.

“Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới” (Hoài Thanh). Hình ảnh “cánh phân vân” đặc tả dáng cò đang lững lờ đôi cánh, không biết nên bay cao hay bay thấp, bay gần hay bay xa, bay lên hay đậu xuống…

Chiều thu tàn, bầu trời như trải rộng thêm ra. Cảm nhận ấy được diễn tả qua hai câu thơ tuyệt bút:

“Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”.

Lấy cái hữu hạn, cô đơn, bé nhỏ (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn, mênh mông (bầu trời) là một nét vẽ tài hoa. “Chim nghe…” – sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị. Cánh chim nhỏ nhoi, bay miết, in dáng trên nền trời chiều bao la. Hoàng hôn buông xuống, sương thu chớm lạnh. Hoa khép cánh dần…

Thời gian nhẹ nhàng trôi “bước thu êm”. Tâm hồn thi nhân dào dạt tình thương mến. Chan hòa cùng đất trời, tạo vật. Mọi tâm hồn sẽ tự tìm đến với nhau và “thắm lại” (Xuân Hương), cần chi băng nhân? Nhà thơ khe khẽ reo lên: “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Phải chăng ý câu thơ này: “Anh đã phải lòng em” như có người đã hiểu?

“Thơ duyên” đã tồn tại hơn nửa thế kỉ mà vẫn “duyên” vẫn đẹp. Bởi lẽ cảnh thu tuyệt đẹp, thơ mộng. Tình thu trong sáng, bâng khuâng. Từ chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đến “Thơ duyên”, hơn bao giờ hết, ta cảm nhận sâu sắc rằng, “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới”.

Chim đã có đôi, có cặp rồi, cho nên “Lòng anh thôi đã cưới lòng em” vậy. Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy. “Thơ duyên” là một bài thơ tình của Xuân Diệu. Trong tuyển tập “100 bài thơ tình”, “Thơ duyên” mang vẻ đẹp một “hoa khôi” sáng giá.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thơ Duyên Nổi Bật – Mẫu 2
Mỗi khi nhắc đến Xuân Diệu người ta sẽ nhớ ngay tới một thi sĩ với khả năng quan sát tinh tế, tình cảm say mê nồng cháy. Trong các bài thơ của ông, người đọc luôn thấy tình yêu cuộc sống, sự trân quý mọi khoảnh khắc của cuộc đời, của vạn vật và “Thơ duyên” là một trong những bài thơ như vậy.

Ở bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được sự tinh tế của thi sĩ trong việc tái hiện sự trôi chảy của thời gian và hồn thu, tình thu cũng được khắc họa rõ nét qua ngòi bút tài hoa này.

“Thơ duyên” là khúc hát say mê, nhạy cảm với cuộc đời. Chữ “duyên” có thể hiểu là sự giao cảm, hòa nhịp với thiên nhiên đất trời, con người. Vốn là một con người dễ rung động trước cái đẹp, lại là người đa sầu đa cảm nên nhà thơ lại càng trân trọng sự chuyển động của thời gian và cụ thể ở bài thơ này là sự chuyển giao giữa hạ sang thu.

Không chỉ đến bài thơ này thi sĩ mới viết về mùa thu mà trong tập “Thơ thơ” độc giả cũng đã bắt gặp “nàng thơ” với sự “ngẩn ngơ”, u sầu trong “Đây mùa thu tới”. Còn “Thơ duyên” bắt đầu với những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng.

“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.”

Nhìn tổng thể cảnh vật mùa thu qua khổ một có thể thấy đây là một bức tranh sinh động và nên thơ. Với không gian là buổi “chiều mộng” – lãng mạn, êm ái hòa vào đó “thơ trên nhánh duyên” gợi nên khung cảnh trữ tình. Vạn vật dường như cũng vui mừng, hò reo khi thu về khi có “cặp chim chuyền” đang ríu rít trên “cây me”.

Động từ “ríu rít” lột tả được phấn khởi, vui vẻ khi chúng liên tiếp “chuyện trò” với nhau. Hình ảnh cây me cũng gợi nhớ lại Hà Nội xưa cũ, một phần của quê hương xứ sở. Cùng lúc đó cả “bầu trời”, “lá” đều chuyển sang màu ngọc. Sắc màu này đã từng được nhà thơ Hàn Mạc Tử nhắc đến qua “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” (Đây thôn Vĩ Dạ).

Màu sắc gợi lên cảm giác trong xanh cùng với động từ “đổ” tạo cảm giác dứt khoát, lan tràn. Bây giờ không gian không chỉ nhuốm màu xanh mà còn tươi vui, rộn rã với “động tiếng huyền”. Cụm từ “thu đến” như một tiếng reo vui mừng, phấn khích cho mơ ước bấy lâu giờ đã thành hiện thực.

Nếu như đối với khổ thơ đầu, tác giả vẽ nên bức tranh thiên nhiên thì khổ kế tiếp nhà thơ đã tinh ý khi lồng vào đó chút tình cảm riêng tư.

“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.”

Từ tầm nhìn trên cao tác giả “kéo” không gian của mình xuống gần hơn. Thi sĩ liên tiếp sử dụng từ láy hoàn toàn như “nho nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả” gợi sự đáng yêu trên nền nắng chiều. Động từ “trở” đầy sức gợi, mang đến cảm giác chuyển mình. Nếu từ “chiều” ở khổ một còn mang nét huyền huyền ảo ảo thì với khổ thơ này nó mang nét mạnh mẽ, “đậm nắng” hơn. Trong cái sắc hương của trời đất khi sang thu, thi sĩ nhớ lại lần rung động đầu tiên của mình.

Thêm một động từ nữa cũng kích thích trí tò mò của độc giả không kém là “nghe”. “Nghe” ở nghĩa tường minh tức là sử dụng thính giác để lắng nghe âm thanh của cuộc sống, nhưng ở nhân vật “ta” hành động “nghe” lại chỉ ra được tâm ý, sự thầm thương, phải lòng “cố nhân”. Đó là cách dùng từ vô cùng đặc sắc của tác giả.

“Em bước điềm nhiên chẳng vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần.”

Hình ảnh của sự “rung động” ấy được tái hiện rõ hơn. Nhân vật “em” và “anh” cùng dạo bước trên con đường nhỏ. “Em” thì hồn nhiên, ngây thơ bước đi không hề bận tâm gì. Còn “anh” thì “lững đững” – trạng thái thoải mái, thong dong. Hai con người xa lạ bỗng gặp nhau trên con đường nhỏ, tưởng xa hóa lại gần. Quả là cái duyên tiền định!

“Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần.”

“Vô tâm” phải chăng là sự lãnh cảm, rời xa hay chính là cái xa lạ nhưng có sự giao lưu, kết nối. Với thủ pháp so sánh nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra quan niệm của mình về chữ “duyên”. Đối với ông thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên, con người say đắm trước cảnh vật vẫn là chưa đủ mà còn một “cặp bài trùng khác” là sự giao duyên giữa con người với nhau.

Chẳng thế mà dù em vô tư bước đi không để ý gì về người đằng sau, còn anh thong dong ngắm nhìn trời đất cũng không đoái hoài gì người phía trước nhưng giữa họ lại có sự kết nối như “cặp vần” – gắn bó khăng khít, không thể tách rời. Một nhân sinh quan thật mới mẻ!

“Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.”

Khổ bốn mang đến cho độc giả cảnh thu trên không gian rộng lớn. Hoạt động của thiên nhiên cũng dần dồn dập, nhanh chóng hơn. Từ láy “gấp gấp” tạo cảm giác hối hả, thúc giục. Tuy nhiên cụm từ “về đâu” lại đặt ra câu hỏi cho nơi đến của mây. Cùng với mây, con cò dường như cũng “phân vân”, đắn đo không biết nên bay lên cao hay xuống thấp, bay gần hay bay xa.

Chiều thu tàn bắt đầu có chút gì đó bâng khuâng, bầu trời trải rộng ra và dường như cánh chim cũng đã thích nghi với điều này để rồi “giang thêm cánh”. Thi sĩ gán cho chim với động từ “nghe” như để sinh vật này hiểu được bầu trời, cảm nhận được thiên nhiên rồi từ đó điều chỉnh để thích nghi. Cách nhà thơ sử dụng cái hữu hạn (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn (bầu trời) là một thủ pháp hay và ý vị.

Người đọc dễ dàng hình dung được một cánh chim không mỏi, bay miệt mài trên nền xanh của bầu trời. Và càng chìm dần vào chiều thu, sương càng rơi xuống nhiều. “Hoa lạnh” vì có thể do “đẫm sương” hoặc do cơn gió nào đó. Chiều mùa thu bắt đầu lạnh làm cho người đọc cũng mang chút gì xao xuyến, bâng khuâng.

Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình lại hồi tưởng về mối tình đầu của mình, về những rung động đầu đời lồng ghép vào trong hình ảnh thiên nhiên. Hình ảnh nhân hóa “bước thu êm” như sự chuyển động nhẹ nhàng, dịu dàng của nàng thu.

Từ “êm” gợi cảm giác dễ chịu, thoải mái. Trên nền thu dịu dàng , e ấp “anh” lại nói về sự rung động của mình khi gặp em – “lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Động từ “cưới” như một sự chắc nịch rằng anh đã phải lòng em và tấm lòng của anh chỉ hướng tới em. Động từ này còn nói lên sự gắn bó, xem “em” như là “mảnh ghép” còn lại của đời mình.

Bài thơ “Thơ duyên” không chỉ xuất sắc về nội dung mà ở khía cạnh hình thức bài thơ cũng đã làm rất “tròn vai” của mình. Bên cạnh việc sử dụng các từ láy, phép nhân hóa, các từ ngữ đặc sắc một nét khá đặc biệt trong bài thơ là cách ngắt câu.

Thường thường ở thơ bảy chữ mà có bốn câu thì chỉ chấm kết thúc ở dòng cuối cùng ở mỗi khổ nhưng với “Thơ duyên” thì khác, dòng một với dòng ba là có dấu chấm phẩy khi kết thúc dòng. Còn dòng hai với dòng bốn là dấu chấm. Tức là hai dòng sẽ tạo thành một câu. Đây là một nét lạ và sáng tạo của Xuân Diệu.

Bằng ngòi bút giàu nhiệt huyết, tình yêu sôi nổi của một con người luôn trân quý, nắm bắt thời gian nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên với nhiều hình ảnh, nhiều sắc thái đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó tác giả đã viết nên sự rung động đầu đời của mình – sự giao cảm, kết nối giữa những con người tưởng chừng xa lạ nhưng lại là cái duyên đã được sắp đặt sẵn. Tình duyên nảy nở trong tình thu!

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Ẩn danhNhà phê bình Hoài Thanh từng nhận định "Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới". Bằng hồn thơ trong trẻo, tâm hồn tràn đầy tình yêu cùng khát khao giao cảm với đời mãnh liệt, Xuân Diệu đã để lại vô vàn tác phẩm giá trị. Trong số đó phải kể đến bài thơ "Thơ duyên". "Thơ duyên" đã mang đến cho người đọc khung cảnh tuyệt sắc của thiên nhiên mùa thu và sự giao duyên, kết nối giữa "anh" và "em".

Có thể nói, "Thơ duyên" đã khơi gợi sự hòa hợp, gắn bó đầy chất thơ giữa vạn vật trong thiên nhiên. Trước hết, điều này được thể hiện rõ nét thông qua nhan đề. "Duyên" mà thi sĩ muốn nhắc tới ở đây là sự gặp gỡ, giao hòa giữa thiên nhiên với thiên nhiên, thiên nhiên với con người và con người với con người. Từ đó, Xuân Diệu không chỉ miêu tả vẻ đẹp trời thu mà còn khắc họa những mối duyên tình hài hòa.

Ở khổ thơ đầu, khung cảnh chiều thu được tái hiện thật êm ả, nên thơ:

"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,

Cây me ríu rít cặp chim chuyền.

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,

Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền."

Sự kết hợp giữa đường nét "nhánh duyên", âm thanh "ríu rít", màu sắc "xanh ngọc", hình ảnh "cặp chim chuyền" đã cho thấy đôi mắt tinh tế cùng nét bút tài tình của Xuân Diệu. Bằng tất cả các giác quan, "ông hoàng thơ tình" vẽ nên bức tranh mùa thu tươi mát, dịu êm. Từng chi tiết, từng sự vật hoạt động tách rời nhưng lại có sự hài hòa, gắn kết với nhau. Tất cả cùng tạo nên một buổi chiều mộng ảo, đồng thời báo hiệu khoảnh khắc thu tới "nơi nơi động tiếng huyền.". Âm thanh mùa thu như tiếng đàn tiếng ca, vang vọng khắp nơi, làm lòng người thêm chộn rộn, bâng khuâng hơn bao giờ hết.

Cảnh thu tiếp tục được gợi tả qua:

"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu

Lả lả cành hoang nắng trở chiều;

Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn

Lần đầu rung động nỗi thương yêu."

Hàng loạt các từ láy "nhỏ nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả" vừa phác họa đường nét mềm mại của cảnh vật, vừa gợi nỗi xao xuyến của lòng người. Dường như mọi thứ đều song hành, song đôi cùng nhau. Cảnh thu, tình thu đã khéo léo đưa chủ thể trữ tình ngược về "buổi ấy lòng ta nghe ý bạn". Đi giữa trời thu, lắng nghe âm hưởng xa xưa vọng lại, lòng người bồi hồi nhớ đến "Lần đầu rung động nỗi thương yêu". Khoảnh khắc trái tim đập rộn ràng, chủ thể trữ tình đã biết đây chính là cảm giác rung động trong tình yêu:

"Em bước điềm nhiên không vướng chân,

Anh đi lững đững chẳng theo gần

Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu

Anh với em như một cặp vần."

Giây phút "anh" và "em" đi trên con đường nhỏ trông thật xa cách. Nếu như "em" điềm nhiên bước đi chẳng chút vướng bận thì "anh" lại lững đững, thong dong theo sau. Nhìn bên ngoài, hai ta có vẻ cách xa nhưng bên trong đã có sự kết nối như "một cặp vần". Đôi ta tưởng xa hóa lại gần, gắn bó, giao hòa mật thiết, không thể tách rời. Khung cảnh trở nên đẹp đẽ nhờ sự giao duyên của con người. Bức tranh mùa thu huyền diệu càng thêm tươi tắn, nhẹ nhàng tình thu, tình người. Bức tranh ấy đã ẩn chứa một trái tim rung động cùng tình yêu rạo rực ở "anh".

Ta còn cảm nhận được nỗi ám ảnh về sự chảy trôi của thời gian trong thơ Xuân Diệu được thể hiện ở "Thơ duyên":

"Mây biếc về đâu bay gấp gấp

Con cò trên ruộng cánh phân vân

Chim nghe trời rộng giang thêm cánh

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần."

Phía cao xa, từng đám mây màu biếc đã bắt đầu "gấp gấp" bay đi. Dưới ruộng đồng, mấy con cò cũng chuyển sang trạng thái "phân vân", không biết nên đi hay ở. Trên khoảng trời rộng lớn, đàn chim nghe lời nhắc nhở mà giang rộng đôi cánh tìm về nơi trú. Chiều thu buông xuống, cảm giác lạnh lẽo như vấn vương đâu đây "hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần". Sự hối hả, giục giã của cảnh vật như lan tỏa tới lòng người. Và rồi, nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến càng làm "anh" khao khát được giao cảm, hòa hợp.

Chẳng thể níu giữ bước đi của thời gian nhưng "anh" đã:

"Ai hay tuy lặng bước thu êm

Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm

Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,

Lòng anh thôi đã cưới lòng em."

Chiều thu đến thật êm ả, bình yên nhưng ra đi lại sôi nổi, hối hả. Nhưng nhờ đó, duyên "anh" và duyên "em" mới có thể tìm đến nhau. Đôi ta từ người xa lạ mà trở nên đồng điệu về tâm hồn, biết rung động, thổn thức trước tình yêu. Sự kết nối của "anh" và "em" thật diệu kì làm sao. Trước mối giao hòa của thiên nhiên đất trời, hai ta cũng xích lại gần nhau mà chẳng cần "băng nhân gạ tỏ niềm". Từ đây, chủ thể trữ tình bày tỏ tấm chân tình "Lòng anh thôi đã cưới lòng em". "Anh" coi "em" như mảnh ghép còn thiếu của đời mình. Như vậy, duyên tình đôi ta thêm bền chặt nhờ "cưới". Khổ thơ đã cho ta thấy khát khao giao hòa tuyệt đối trong tâm hồn con người.

Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, thi sĩ Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc những hồn thơ trong trẻo, căng tràn nhựa sống. Các biện pháp tu từ như đảo ngữ "Cành me ríu rít cặp chim chuyền", so sánh "Anh với em như một cặp vần" kết hợp với rất nhiều hình ảnh độc đáo "Lả lả cành hoang nắng trở chiều", "Hoa lạnh chiều thưa" không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn gợi sự giao hòa, gặp gỡ và gắn kết của vạn vật.

"Thơ duyên" đã thể hiện sâu sắc khát khao giao cảm với cuộc đời ở Xuân Diệu. Qua bài thơ, ta lại càng khâm phục khả năng cảm nhận tinh tế cùng ngòi bút tài hoa của thi sĩ. Mong rằng, bài thơ sẽ mãi in lại dấu ấn trong lòng bạn đọc.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved