viết cảm nghĩ của em về bài thơ ''ngọn đèn đứng gác'' của nhà thơ chính hữu

ADS
thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của .ngknhu
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
ADS
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

05/03/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Bài thơ "Ngọn đèn đứng gác" của nhà thơ Chính Hữu là một tác phẩm mang đậm tinh thần yêu nước, khát vọng tự do và chống chiến. Từ hình ảnh ngọn đèn dầu chong mắt trong đêm thâu, nhà thơ đã tạo ra một bức tranh sống động về cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam. Em cảm nhận được sự kiên cường, quyết tâm và lòng yêu nước mãnh liệt của người lính Việt Nam trong cuộc chiến chống giặc. Bài thơ không chỉ là sự ký ức về quá khứ lịch sử mà còn là niềm tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc. Đồng thời, hình ảnh ngọn đèn cũng gợi lên cho em ý nghĩa về sự hy sinh, kiên trung và lòng quyết tâm không bao giờ phai nhạt trong việc bảo vệ tổ quốc. Bài thơ đã khiến em hiểu rõ hơn về tinh thần yêu nước và lòng kiên trung của người lính Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
2.5/5 (2 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
harryharry

05/03/2024

Câu trả lời uy tín

Bài thơ “Ngọn đèn đứng gác” ra đời năm 1965 cùng với bài thơ “Đường ra mặt trận”. Đây là những năm tháng đế quốc Mỹ liều lĩnh đưa hàng chục vạn quân vào miền Nam trực tiếp tham chiến và leo thang, mở rộng đánh phá bằng không lực ra miền Bắc nhằm làm suy yếu hậu phương lớn của miền Nam để cứu vãn thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”

Nhà thơ Chính Hữu (1926 – 2007) tên thật là Trần Đình Đắc. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam và được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Ông sáng tác không nhiều, khoảng gần 50 bài, về cơ bản chỉ có một tập thơ mỏng “Đầu súng trăng treo” do nhà xuất bản Văn học in năm 1966, gồm 24 bài (tính đến trước lúc ông mất nhà xuất bản Hội Nhà Văn có in tập “Thơ Chính Hữu”, nhà xuất bản Văn học in “Tuyển tập Chính Hữu”) nhưng thơ ông rất có chất, một số bài có thể xếp vào loại tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại viết về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc, trong đó có bài thơ “Đồng chí” đã trở thành quen thuộc với nhiều thế hệ học sinh trên cả nước. Bài thơ “Ngọn đèn đứng gác” ra đời năm 1965 cùng với bài thơ “Đường ra mặt trận”. Đây là những năm tháng đế quốc Mỹ liều lĩnh đưa hàng chục vạn quân vào miền Nam trực tiếp tham chiến và leo thang, mở rộng đánh phá bằng không lực ra miền Bắc nhằm làm suy yếu hậu phương lớn của miền Nam để cứu vãn thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Bắt đầu từ đây, cả nước ta bước vào một chặng đường “ra trận” mới. Bộ đội, thanh niên xung phong khắp nơi tòng quân lên đường đi đánh giặc. Người người, lớp lớp băng rừng, vượt biển chi viện cho miền Nam. Để tránh bị địch phát hiện, càn quét, đánh phá chúng ta chỉ hành quân vào ban đêm. Khi ấy, trên khắp các nẻo đường ra trận, bộ đội chỉ treo các đèn bão thắp sáng bằng dầu để dẫn đường. Bắt đầy từ khi ấy hình ảnh những “ngọn đèn đứng gác” đã trở thành phổ biến và quen thuộc với nhiều người ở miền Bắc. Và đó cũng chính là nguồn cảm hứng cho Chính Hữu sáng tạo nên bài thơ, sau đó tác phẩm đã được nhạc sỹ Hoàng Hiệp phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

Mạch cảm xúc của bài thơ được vận động theo tâm trạng xúc động và tự hào của nhân vật trữ tình (một người lính trên đường ra trận). Nhìn những ngọn đèn dầu trong đêm, người lính đã liên tưởng đến miền Nam, đến đất nước, đến nhân dân cả nước và trào dâng những nỗi niềm xúc cảm. Bảy dòng thơ đầu kể lại hình ảnh những ngọn đèn dầu trong đêm mà người lính nhìn thấy trên khắp mọi nơi trên đường ra trận. Mười sáu dòng thơ tiếp theo, qua hình ảnh ngọn đèn dầu, người lính đã liên tưởng tới tình cảm của nhân dân cả nước dành cho miền Nam và ngược lại. Bốn dòng thơ cuối cùng là suy cảm của nhà thơ về ngọn đèn và niềm tin tất thắng vào tương lai của dân tộc. Xuyên suốt mạch cảm xúc với hình ảnh trung tâm là ngọn đèn dầu thắp sáng trong đêm. Những ngọn đèn dầu đó vô cùng bình dị nhưng có một sức sống dẻo dai, bền bỉ; dù “trong gió trong mưa” nhưng “không bao giờ nhắm mắt”. Ngọn đèn ấy vừa có nghĩa tả thực vừa có nghĩa tượng trưng. Ngọn đèn ấy soi đường, giục giã người chiến sĩ ra trận; thắp sáng lên trong lòng người lính những niềm vui, niềm tin tất thắng. Nhưng ngọn đèn ấy cũng là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu đất nước bất diệt, cho những tình cảm cao đẹp của nhân dân Việt Nam ở hai miền Nam, Bắc dành cho nhau trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Mở đầu bài thơ, mạch cảm xúc thứ nhất, hình ảnh những ngọn đèn hiện lên trên mọi nẻo đường:

“Trên đường ta đi đánh giặc

 Ta về Nam hay ta lên Bắc

 Ở đâu

 Cũng gặp

 Những ngọn đèn dầu

 Chong mắt

 Đêm thâu”

Hình ảnh những ngọn đèn dầu báo hiệu giúp cho người lính nhận diện được con đường đi trong đêm tối đã được nhà thơ nhân hóa như những cặp mắt suốt đêm không ngủ để dẫn lối, chỉ đường cho những đoàn quân nối đuôi nhau ra mặt trận. Hình ảnh “chong mắt” trong khổ thơ thật hay. “Chong mắt” có nghĩa là mắt mở liên tục, không chợp mắt tí nào. Có thể thấy với hình ảnh này nhà thơ đã cho mọi người thấy được hình ảnh những đoàn quân ra trận di chuyển trong đêm liên tục; phản ánh được cái không khí ra trận giống như ngày hội non sông trong màn đêmở khắp mọi nơi: “Xóm dưới làng trên, con gái con trai/ Xôi nắm cơm đùm, ríu rít theo nhau/ Súng nhỏ súng to chiến trường trật trội/ Tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu” (Đường ra mặt trận - Chính Hữu).

Hơn bao giờ hết, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã huy động được sức mạnh toàn dân. Với ý thức tất cả dành cho chiến trường, nhân dân ta nhận thức rõ nghĩa vụ và trách nhiệm công dân của mình với đất nước. Họ đã tình nguyện hiến dâng tất cả để xông lên tuyến đầu diệt thù giải phóng non sông. Cho nên không khí và con đường ra trận khi đó dù có trong đêm tối thì với họ vẫn là con đường đẹp nhất, “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”, đó là con đường: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Theo chân Bác – Tố Hữu).  Hơn ai hết, dân tộc ta, nhân dân ta đã sớm ý thức được rằng: mất nước là mất tất cả. Mất nước dù có sống hoài thì cũng vô nghĩa. Chính vì vậy những ngọn đèn “chong mắt/ thâu đêm”đãmọc lên ở khắp mọi nơi chốn:“về Nam” hay “lên Bắc”, có nghĩa là ở bất kỳ chỗ nào người lính cũng trông thấy. Trong bài thơ này nhà thơ Chính Hữu không trực tiếp miêu tả không khí sôi nổi ra trận của nhân dân ta khi đó như trong bài thơ “Đường ra mặt trận”nhưng với hình ảnh ngọn đèn dầu xuất hiện trong một không gian bao trùm từ Nam lên Bắc như thế chúng ta vẫn có thể hình dung ra cái khí thế và quyết tâm ra trận để giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà của cả đất nước ta thời ấy.

Sang đoạn thơ thứ hai, từ hình ảnh những ngọn đèn dầu thức trắng trong đêm nhà thơ đã liên tưởng đến một tình cảm yêu quý thiêng liêng của nhân dân cả nước dành cho miền Nam và tình cảm của nhân dân miền Nam dành cho đồng bào cả nước.

“Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt

Như những tâm hồn không bao giờ tắt

Như miền Nam

Hai mươi năm

Không đêm nào ngủ được,

Như cả nước

Với miền Nam

Đêm nào cũng thức

Soi cho ta đi

Đánh trận trường kỳ

Đèn ta thắp niềm vui theo dõi

Đèn ta thắp những lời kêu gọi.

Đi nhanh, đi nhanh

Chiến trường đã giục

Đầy núi đầy sông

Đèn ta đã mọc.\

Hình ảnh ngọn đèn dầu chỉ đường “chong mắt/ thâu đêm” bình dị quen thuộc xuất hiện trên mọi nẻo đường đi đánh giặc xuyên suốt bài thơ đã nói lên được một cách thấm thía về những gian khổ, hy sinh của miền Nam “đi trước về sau” trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Kể từ ngày 23 tháng 9 năm 1945, lúc bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đến khi bài thơ ra đời, năm 1965, đồng bào miền Nam đúng tròn hai mươi năm kháng chiến không ngừng không nghỉ hết Pháp rồi lại đến Mỹ - Ngụy. Trong hai mươi năm ấy có biết bao đêm trường đau khổ. Và cũng trong suốt hai mươi năm đó, hậu phương lớn miền Bắc cũng không nguôi hướng về miền Nam thân yêu: “Như cả nước/ Với miền Nam/ Đêm nào cũng thức”.

Chính Hữu không kể nhiều, chỉ vài dòng thơ ngắn nhưng rất hàm súc, cô đọng với hình ảnh ngọn đèn là trung tâm, đoạn thơ đã thể hiện xúc động tinh thần chiến đấu bền bỉ của dân tộc ta và khơi gợi được cái không khí hào hùng của cả một thời kỳ chống Mỹ oanh liệt. Ở đoạn thơ này, Chính Hữu đã phát huy tối đa hiệu quả tu từ của nghệ thuật nhân hóa (Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt; Đèn ta thắp niềm vui theo dõi; Đèn ta thắp những lời kêu gọi), hoán dụ (miền Nam/ Hai mươi năm/ Không đêm nào ngủ được; cả nước/ Với miền Nam/ Đêm nào cũng thức), so sánh (Như những tâm hồn không bao giờ tắt; Như miền Nam/ Hai mươi năm/ Không đêm nào ngủ được; Như cả nước/ Với miền Nam/ Đêm nào cũng thức), điệp ngữ (không bao giờ, đêm nào, miền Nam, như, Đèn ta thắp niềm vui theo dõi/ Đèn ta thắp những lời kêu gọi; Đi nhanh, đi nhanh; Đầy núi đầy sông). Có thể nói, với nghệ thuật nhân hóa nhà thơ đã làm cho ngọn đèn vô tri thắp lên những đốm sáng bên đường thành những cặp mắt đang mở để dẫn đường, đưa lối cho những đoàn quân nối đuôi nhau ra mặt trận; thành những tâm hồn biết chia sẻ những nỗi niềm buồn vui; biết dõi theo, thúc giục, kêu gọi, cổ vũ những đoàn quân và cả nước cùng nhau tiến lên phía trước. Việc nhân hóa ngọn đèn như thế đã làm cho hình ảnh thơ hiện lên rất sinh động; đồng thời cũng khơi gợi trong lòng người đọc hình ảnh của cả một đất nước với hai miền Nam, Bắc trong suốt hai mươi năm chưa bao giờ ngừng trăn trở và lúc nào cũng thao thức với một nung nấu quyết tâm đánh giặc thống nhất nước nhà. Cùng với biện pháp nhân hóa là kiểu hoán dụ lấy vật chứa đựng để gọi tên vật bị chứa đựng (miền Nam - đồng bào miền Nam, cả nước - toàn thể nhân dân Việt Nam) kết hợp với cách nói so sánh, ví von những ngọn đèn dầu “không bao giờ nhắm mắt” trong đêm như những tâm hồn không bao giờ tắt, như miền Nam hai mươi năm không ngủ, như cả nước với miền Nam đêm nào cũng thức đã diễn tả cụ thể và sâu sắc tình cảm son sắt, thủy chung của nhân dân cả nước với đồng bào miền Nam và của đồng bào miền Nam với nhân dân cả nước.Cái ý thơ ấy lại gợi ta nhớ đến quyết tâm cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng là của toàn thể dân tộc ta: “dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Cho nên hai mươi năm hay nhiều hơn hai mươi năm những ngọn đèn vẫn kiên trì, bền bỉ “cho thắng lợi nối đuôi nhau”. Cái tình cảm thiêng liêng, sắt son ấy; cái quyết tâm sắt đá ấy; cái niềm tin cháy bỏng ấy được nhà thơ nhận ra từ khí thế ra trận của cả dân tộc qua những ngọn đèn đứng gác và khẳng định, nhấn mạnh bằng biện pháp tu từ điệp ngữ. Có thể nói, những tình cảm, những niềm tin cùng cả những quyết tâm của cả dân tộc khi đó như thể đang thường trực trong trái tim của mỗi người. Nó cháy sáng như những ngọn đèn để cổ vũ, thúc giục những bàn chân “đi nhanh, đi nhanh” ra trận, tiến lên phía trước, nơi “chiến trường đã giục”. Những ngọn đèn tỏa sáng thầm lặng nhưng đầy cháy bỏng, thiết tha ấy đã đưa người ra trận “đi theo ánh lửa từ trái tim mình” để “vượt trên triền núi cao Trường Sơn” với sức mạnh“đá mòn mà đôi gót không mòn”(Vũ Trọng Hối).

Kết thúc bài thơ, hình ảnh ngọn đèn đứng gácnhư những người chiến sĩ “trong gió trong mưa” hiện lên trong suy cảm của nhà thơ về tình yêu đất nước và niềm tin tất thắng vào tương lai của dân tộc:

“Trong gió trong mưa

Ngọn đèn đứng gác

Cho thắng lợi, nối theo nhau

Đang hành quân đi lên phía trước”.

Vẫn là hình ảnh ngọn đèn được nhân hóa như ở đoạn thơ mở đầu, với hình ảnh này bài thơ được khép lại trọn vẹn theo kiểu kết cấu nghệ thuật đầu cuối tương ứng. Nó vừa nhấn mạnh sự bền bỉ, kiên trì bất chấp mọi gian khổ của dân tộc trên con đường đánh giặc giải phóng đất nước vừa thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước với những thắng lợi nối theo nhau, đi lên phía trước.  Hình ảnh khép lại bài thơ ấy giản dị nhưng xúc động và có ý nghĩa khái quát sâu sắc. Nó thể hiện một cách thấm thìa về tinh thần hi sinh, tinh thần chiến đấu không ngừng, không nghỉ của dân tộc ta; nói lên được vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ và cũng gợi được lên tinh thần của cả thời đại. Đó là không khí sục sôi, hào hùng của những năm tháng: “Bộ đội dân quân trùng trùng điệp điệp/ Chào nhau không kịp nhớ mặt/ Dô hò nón vẫy theo/ Hàng ngũ ta đi dài như tiếng hát”;“Đất nước mình đây/ Hai mươi năm/ mưa, nắng, đêm, ngày/ Hành quân không mỏi/ Sung sướng bao nhiêu: tôi là đồng đội/ Của những người đi, vô tận, hôm nay/ Yểm hộ miền Nam/ Thình thình đại bác/ Nhịp những bước chân/ Cả nước/ lên đường” (Đường ra mặt trận).

“Ngọn đèn đứng gác” là một trong những bài thơ hay nhất của Chính Hữu. Bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của ông: viết về đất nước, nhân dân, người chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu; tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của ông: giàu nhạc tính; nhịp thơ linh hoạt, phóng khoáng; hình ảnh giản dị mà hàm súc; mang đậm hơi thở của thời đại. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng đã khép lại gần nửa thế kỷ, nhà thơ cũng đã giã từ cõi đời nhưng những vần thơ tươi sáng, đẹp đẽ của ông vẫn mãi là bài ca bất hủ về hình ảnh một thời của đất nước, của anh chiến sĩ. Những vần thơ ấy, những bài ca ấy vẫn ngân dài và sống mãi với thời gian.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
2.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
ADS
avatar
level icon
Ngg Ngann Bài bài ngọn đèn đứng gác em cảm thấy rất xúc động,khâm phục tinh thần của những chiến sĩ ngày đêm đánh giặc. Và bây giờ khi hoà bình được thiết lập những ngọn đèn ấy vẫn không mất đi mà trở thành những ngọn hải đăng, những tượng đài để nhân dân cả nước cùng hướng về với tấm lòng biết ơn và ngưỡng mộ. Để có thể được như ngày hôm nay những chiến sĩ cách mạng đã chẳng ngại gian khổ, quyết tử để bảo vệ mảnh đất quê hương. "Trong gió trong mưa Ngọn đèn đứng gác Cho thắng lợi, nối theo nhau Đang hành quân đi lên phía truớc." Dù mưa gió có cản bước thì những ngọn đen ấy vẫn đứng gác với niềm mong mỏi thắng lợi sẽ đến, nước nhà sẽ lại được tự do. Để có ngày hôm nay những ngọn đèn của dân tộc đã phải đánh đổi quá nhiều từ sức khoẻ đến mạng sống, em cảm thấy rất tự hào khi là một người con nước Việt.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
4.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon

Ngg Ngann Trên đường ta đi đánh giặc

Dù về Nam hay ta lên Bắc, ở đâu cũng gặp

Những ngọn đèn dầu chong mắt đêm thâu.

Nhà thơ Chính Hữu, tên thật là Trần Đình Đắc, quê gốc ở huyện Can Lộc (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Ông chào đời ởVinh năm 1926 và gắn bó với Hà thành khi học, Trường trung học Văn Lang ở phố Lý Quốc Sư. Đỗ tú tài phần thứ nhất, ông tiếp tục học lên Trường Lu-i Pat-xtơ, lấy bằng tú tài toàn phần.

Đó cũng là lúc ông được tuyên truyền và tham gia đảng Dân chủ. Sau khi tất nghiệp, ông theo tiếng gọi của thành phố Vinh, nơi ông đã gắn bó tuổi thơ và có người cha làm việc ở đó, để tuyên truyền đường lối cứu nước của Việt Minh, tham gia khởi nghĩa và đảm trách Bí thư Thanh niên cứu quốc thành phố Vinh.

Những ngày Hà Nội chuẩn bị kháng chiến, ông trở lại Hà Nội, cùng anh em ở phố Nhà Thờ đào hào đắp ụ, củng cố Đại đội tự vệ Hàng Gai thuộc khu Đông Thành của Liên khu I

Nhưng rồi cái tướng văn của chàng thư sinh đã khiến ông Hoàng Đức Nghi mà tôi vẫn nghe anh em gọi thân mật là Nghi gù "duyệt" ngay ông vào Ban Tuyên truyền, làm báo Chiến thắng của Liên khu I.

Bà Lê Thi, con gái giáo sư Dương Quảng Hàm, khi đó cùng trong Ban tuyên truyền kể: "Chúng tôi ở luôn trụ sở của Uỷ ban kháng chiến Liên khu tại hiệu Đức Bảo, (phố Hàng Bạc), do anh Lê Trung Toản làm Chủ tịch ủy ban. Bộ phận làm báo Chiến thắng ở trên gác hai. Dưới nhà là nơi hội họp chung và để máy in, có hai anh thợ chuyên in litô.

Ơ… những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt

Như những tâm hồn không bao giờ tắt

Như miền Nam hai mươi năm không đêm nào ngủ được

Như cả nước với miền Nam đêm nào cũng thức.

Anh Chính Hữu và anh Đinh Nhật Hiển (tức Nguyệt) vốn cùng ở nhà trọ phố Lý Quốc Sư hồi học trường Văn Lang viết bài và tin. Tờ báo chỉ nhỏ bằng tờ giấy A4 bây giờ, nhưng lại thật sự là người bạn của cán bộ, chiến sĩ. Chúng tôi mang đến từng đại đội phát cho anh em. Những tin chiến thắng nóng hổi đã cổ vũ động viên họ thi đua lập công đánh giặc".

Bài thơ "Thủ đô huyết thệ” của chiến sĩ Trịnh Đình Báu đăng trên báo đã có sức mạnh vô cùng cổ vũ đồng đội chắc tay súng trong khói lửa, nhà siêu, tường đổ... Những con chữ mải miết chạy trên trang giấy khi bên ngoài, tiếng súng các cỡ; tiếng máy bay spítphai gầm rú, cháy rụi bởi súng tầm thấp trên nóc nhà phố Hàng Quạt của tiểu đội Bạch Ngọc Liễn và Tạ Doãn Địch.

Tâm hồn đa cảm của ông đã khắc sâu bao hình ảnh đồng đội ngã xuống; đêm ra đi qua gầm cầu Long Biên ngoái đầu nhìn lại phố phường thân yêu đỏ rực mà lòng đau buốt. Những ai đã quyết tử với quân thù cho đến ngày 17-2-1947 sẽ không bao giờ quên, trong đội hình lui quân, Tiểu đoàn 103 đi sau cùng có nhiệm vụ đốt lửa để nghi binh quân địch

Ký ức ấy sống dậy trong ông những ngày Trung đoàn Thủ đô đang đóng quân ở Đại Từ: "Nhớ biết bao những mái nhà hoang / Bức tường đổ điêu tàn ta từng trấn giữ / Đêm ta ra đi đất trời bốc lửa / Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng". Không chỉ là thơ mà còn là lời gan ruột của người cán bộ Trung đoàn Thủ đô đã trải qua 60 ngày chiến đấu trong vòng vây của kẻ thù mới có được những câu bi hùng rung động cả tâm hồn như thế.

Bài thơ đã đi vào trái tim những người con Hà Nội đang xa nhà, xa phố phường thân yêu. Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác đã từng là chiến sĩ của Đại đội Hàng Gai kể: “Ra hậu phương, tôi mới gặp anh Chính Hữu. Anh ấy sáng tác bài thơ khi Trung đoàn đang ở Đại Từ (Thái Nguyên). Đói, rét, thiếu thốn tất cả từ bát cơm, manh áo. Bài thơ gợi lại trong chúng tôi những ngày máu lửa oanh liệt trên phố phường mà lòng đầy nhớ nhung mái nhà, đường phố thân quen. Giữa năm 1947, tôi phổ nhạc và sau đó, tôi thường vừa đàn ac-coóc-đê-ông vừa hát; đôi khi tôi song ca với Trần Chất trong những dịp tố chức văn hóa, văn nghệ của Trung đoàn".

Năm 1948, làng Thơ biết đến Chính Hữu với bài thơ “Đồng chí", và cho đến nay, đó vẫn là một trong số những bài thơ hay nhất viết về người lính trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Tôi yêu những câu thơ thật dung dị, mộc mạc nói về người nông dân mặc áo lính mà cũng thật lãng mạn và sâu lắng trong bài "Đồng chí".

Áo anh rách vai, quần tôi có hai mảnh vá

Miệng còn cười buốt giá chân không giày

Thương nhau ta nắm lấy bàn tay

Đêm nay rừng hoang sương muối

Nằm kề bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo

Nhưng rồi lại một lần nữa, ông đã thấm vào máu thịt cái hồn của phố Hà Nội nên mới có những câu thơ xuất thần “Mái buồn nghe sấu rụng" trong bài “Đêm Hà Nội" tuyệt mỹ đến vậy. Đó là thời gian các văn nghệ sĩ sáng tác phục vụ cho chủ trương tổng phản công, chuẩn bị tiến về giải phóng Thủ đô, Nguyễn Đình Thi có “Hà Nội đêm nay”, Văn Cao có “Tiến về Hà Nội".

Nhưng ông đã tạo được nét thơ riêng của mình với cảm xúc dồn nén mà vẫn đẹp trong hình tượng thơ. Sau này, ông tâm sự với bạn đọc: "Tôi thích những câu thơ hàm súc, nói rất ít nhưng gợi rất nhiều những ý tưởng lan xa. Tôi tự xác định mình chỉ nên là và chỉ có thể là một người là thơ nghiệp dư, để có thể tự do. Để tự do, chỉ viết những điều nội tâm mình thôi thúc phải viết , và tự do huỷ bỏ những cái viết ra nhưng không vừa ý".

Đó là phẩm chất vô cùng quý giá của nhà thơ, khi ông phải đảm đương công tác quản lý của công tác Tuyên huấn trong quân đội và của Hội Nhà văn, lo nhiều việc đại sự và nhiều khi, thật khó để có được, dành ra được khoảng trời tự do cho Thơ.

Với tài năng và cá tính riêng, những năm cả nước chống Mỹ, Chính Hữu lại xuất thần với một chùm thơ “Trang giấy học trò”, "Có những ngày vui sao”, “Ngọn đèn đứng gác" in đậm dấu ấn trong lòng bạn đọc.

Vậy rồi, hồn thơ của ông vẫn chung thuỷ trở về mạch nguồn - kỷ niệm với đồng chí, đồng đội Trung đoàn Thủ đô đầy trong trẻo, gắn bó keo sơn với “Những chiến luỹ chặn ngang / Những con đường / Như những khúc ruột / Bị chặt đứt / Quặn đau mà đẻ ra trung đoàn " (Kỷ niệm Trung đoàn).

Trò chuyện trong buổi chiều đông cuối năm 2008, bà Nguyễn Thị Xuân Lịch, vợ nhà thơ cho tôi biết: "Cuốn nhật ký của Chính Hữu đã giúp nhà văn Nguyễn Huy Tưởng tìm hiểu thực tế chiến đấu của Trung đoàn với những cán bộ có tài như Vũ Yên, Vũ Lăng, Siêu Hải, Hoàng Phương và xây dựng nhân vật Loan trong tác phẩm "Sông mãi với Thủ đô”. Với việc sáng tác thơ, ông không bao giờ vội vàng chạy theo cảm xúc mà thường "ngâm" rất lâu bản thảo, phải khi nào thật vừa ý mới cho đăng. Ông đã về cõi vĩnh hằng với tâm thế thanh cao của người đã dâng hiến hết mình cho văn học, nghệ thuật và cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt hai), năm 2000 cho tác phẩm “Đầu súng trăng treo" Huân chương Độc lập hạng Nhì của Đảng và Nhà nước trao tặng cho ông là phần thưởng cao quý cho nhà thơ. Nhưng mỗi dịp kỷ niệm kháng chiến toàn quốc, nghe cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô hát bài Ngày về, tôi hiểu, đó chính là điều còn lại cuối cùng của người sáng tác văn học nghệ thuật trong mạch sống - Cây Đời.

Năm 2006, kỷ niệm 60 năm ngày Toàn quốc kháng chiến, lần đầu tiên, tôi được nghe các cựu chiến binh - những chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô năm xưa, Huân, Huy chương lấp lánh trên ngực ca vang bài hát “Ngày về” tại Nhà văn hóa Thông tin thành phố. Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác hứng khởi hát cùng đồng đội.

Âm hưởng vừa hào hùng, vừa bi tráng của bài hát cuốn tôi vào không khí của các chiến sĩ, rất tự hào đã từng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Thật tiếc, nhà thơ Chính Hữu, tác giả của bài thơ “Ngày về" đang phải chiến đấu chống lại bệnh tật. Và khi tôi tìm đến ông để viết bài này thì ông đã đi vào cõi vĩnh hằng mùa đông năm 2007, để lại bao tiếc thương cho đồng chí, đồng đội và những bài thơ hàm súc mà lấp lánh còn mãi trong lòng bạn yêu thơ, yêu nhạc.

Sinh thời, nhà thơ Huy Cận đã viết tặng ông: "Một đời đầu súng trăng treo / Hồn thơ đeo đẳng bay theo chiến trường / Tiếng lòng trong đọng hạt sương / Cánh hoa chiến địa mà gương tâm tình / Cho hay thơ ở lòng mình / Trăng hay súng vẫn bóng hình người thơ”.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
4.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

logo footer
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
app store ch play
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi