
07/03/2024
07/03/2024
07/03/2024
Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng phổ biến ở Việt Nam và một số quốc gia Đông Á. Đây là một điểm khác biệt căn bản về văn hóa giữa Việt Nam so với các quốc gia phương Tây, nơi mà đời sống tinh thần của con người chủ yếu là chịu sự chi phối của Ki tô giáo hay các vùng Cận Đông, nơi tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và một số quốc gia khác mà Hồi giáo là quốc giáo. Nguồn gốc, bản chất của tín ngưỡng này đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam nghiên cứu từ lâu với những kiến giải sâu sắc bằng nhiều phương pháp. Chúng tôi chỉ tóm tắt một số lập ý then chốt sau đây:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng truyền thống, lâu đời của dân tộc Việt Nam. Vậy, nó xuất hiện từ khi nào? Cho đến nay, có khá nhiều giả thuyết đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này. Trong số đó, phổ biến nhất có giả thuyết cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có từ thời sơ sử được củng cố trong thời kì Bắc thuộc đồng thời được củng cố với những ảnh hưởng của văn hóa Hán Nho. Tuy nhiên, còn một số vấn đề gây tranh cãi nảy ra: Liệu thời điểm ra đời có thể sớm hơn không? Mối quan hệ giữa các yếu tố bản địa và các yếu tố du nhập trong việc hình thành tín ngưỡng này như thế nào? … Và từ đó, một câu hỏi lớn được đưa ra: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có các yếu tố cấu thành nào? Các yếu tố đó lại có nguyên lai từ đâu?
Có nhiều phương án để trả lời cho câu hỏi này. Ở đây chúng tôi dựa vào quan điểm tôn giáo học Mác xít, đồng thời tiếp cận các quan điểm tôn giáo học của Mac Weber, Tylo về những đáp án của những câu hỏi về nguồn gốc của các tôn giáo, tín ngưỡng. Trước hết chúng ta phải truy nguyên tìm hiểu về ba nguồn gốc lớn, ba nguồn gốc chủ yếu nảy sinh là: Nguồn gốc nhận thức, nguồn gốc xã hội và nguồn gốc tâm lý.
Bộ phận cốt tủy của các hiện tượng tín ngưỡng đó là niềm tin vào lực lượng thiêng liêng. Đó là cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tôn giáo, tín ngưỡng nào. Niềm tin tôn giáo cũng là nhận thức về chính hiện thực phổ quát lặp đi lặp lại của cư dân xứ nông nghiệp đã đưa tới cơ sở nhận thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Chúng là quan niệm tâm linh của người Việt về thế giới vạn vật đều có thể hiện hai phương diện: sự hiện hữu thực tại và “mang vác” linh hồn – tin vạn vật hữu linh. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức vạn vật có linh thiêng đó là nguồn sống thiêng liêng bất diệt, vô hình, “vạn vật hữu linh” - mọi vật đều có linh hồn. Quan niệm này được mở rộng bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình và vận dụng vào quan niệm con người cũng có linh hồn kết hợp với thể xác. Và khi con người chết đi, linh hồn vẫn tồn tại độc lập. Vì thế, loại thần cổ sơ nhất được người ta sùng là các nhiên thần, đặc biệt là thần cây, thần núi, thần sông …
Bằng cách huyền thoại hóa, các vị nhiên thần đã nhân hóa mang khuôn mặt của con người (hiền hậu hay dữ tợn), tâm lý của con người (vui mừng hay giận dữ) làm nên những nhận thức nền tảng cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Có thể nói việc “nhân hóa” các thần tự nhiên đã tạo ra một bước chuyển cho việc hình thành hệ thống quan niệm nhân hóa về khái niệm linh hồn tổ tiên. Đây cũng chính là giai đoạn con người bắt đầu khám phá về bản thân mình. Đến một thời điểm nào đó, mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái vô hình, nhất là cái sống và cái chết đã làm con người bận tâm và hình thành căn bản quan niệm then chốt làm nên niềm tin của tín ngưỡng này. Vẫn với quan niệm vật linh, “hồn linh” kể trên, họ tin rằng trong mỗi con người đều có phần “hồn” linh còn tồn tại và gắn bó với các thế hệ hậu sinh kế tiếp. Người sống ở lẫn với linh hồn người chết.
Trong nhận thức người Việt, thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách biệt. Ở cõi dương trần, chúng gắn bó khi sống và tách biệt khi chết, thể xác đã hòa vào cát bụi nhưng phần linh hồn vẫn tồn tại chuyển sang sống ở một “thế giới khác” là cõi âm. Cõi âm ấy cũng có mọi nhu cầu tương đương như cuộc sống trần thế dương gian. Theo quan niệm dân gian, “chết” chưa phải là hết. “Chết” cũng là một dạng “sống”, “sống” trong một môi trường khác – cõi âm.
Người ta cho rằng nếu người chết không được hậu thế cúng tế đầy đủ, cung cấp lễ vật đầy đủ sẽ trở thành “ma đói”, lang thang, quấy nhiễu người sống. Nghi lễ cúng tế tại các am cô hồn nhằm lễ “bố thí” chúng sinh lập ở cuối làng, hay trong lễ Vu Lan (rằm tháng Bảy) dành cho “thập loại chúng sinh” cho phép chúng ta nhận ra đó là những biểu hiện mong muốn chia sẻ, an ủi những linh hồn bơ vơ, thiếu đói không có người cúng tế. Một hiện tượng khá bí ẩn nhưng rất được con người tin tưởng đó là thái độ của chúng ta đối với các linh hồn ở âm phủ, người chết thiện thảo thì họ phù trợ cho người đang sống.
Mối quan hệ giữa những người sống và những người chết cùng chung huyết thống lại càng gắn bó hơn. Nhất là từ khi có tiếp cận và tiếp thu ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo. Trong vòng hai, ba đời thì đó còn là những kỷ niệm rất cụ thể và sâu sắc. Ông bà, cha mẹ dù qua đời nhưng linh hồn vẫn luôn hiện diện gần gũi trong không gian sống của hậu sinh. Trong tâm tưởng của con cháu, và con cháu luôn cảm thấy trách nhiệm cúng tế cả về vật chất lẫn tinh thần đối với họ. Niềm tin vào cái chết chẳng qua là một cuộc trở về gặp tổ tiên, ông bà và linh hồn tổ tiên có thể sẽ dõi theo, phù hộ độ trì cho con cháu, đã là cơ sở nhận thức chủ yếu hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời