bài Thuyết minh về Long thành cầm giả ca

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Trang Trang Phạm
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

09/03/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Bài thuyết minh về "Long thành cầm giả ca" là một bài viết hoặc phần nói văn giải thích, trình bày về tác phẩm thơ "Long thành cầm giả ca" của nhà thơ Nguyễn Du. Trong bài thuyết minh này, người viết có thể trình bày về nội dung, ý nghĩa, ngữ cảnh sáng tác, cũng như các đặc điểm văn học và nghệ thuật của tác phẩm này.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
1 bình luận
Bình luận
avatar

Trang Trang Phạm

09/03/2024

Timi rõ hơn được không ạ ,nguyên bài thuyết minh luôn ấy ạ
avatar
level icon
Câu trả lời uy tín

Long thành cầm giả ca (龍城琴者歌) do thi hào Nguyễn Du (阮攸; 1765–1820) sáng tác trong khoảng thời gian đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc) vào năm 1813 đến năm 1914. Bài thơ này cùng với Truyện Kiều, Điếu La thành ca giả, Độc Tiểu Thanh kí...được giới chuyên môn đánh giá là những thi phẩm bộc lộ rõ nét nỗi thương xót chân thành của tác giả về những kiếp người bất hạnh, nhất là những phụ nữ khổ đau, bị vùi dập trong xã hội thời phong kiến của Việt Nam.

Đây là thi phẩm (Bài ca về người gảy đàn ở Thăng Long) được xếp đầu tiên trong Bắc hành tạp lục (北行雜錄), gồm 131 bài thơ. (số lượng ghi theo Ngữ văn 10, Nxb Giáo dục, 2008, tr. 94). Và trong cả tập thơ chỉ có bài thơ này và bài Thăng Long (gồm hai bài thơ ngắn), mang đề tài trên đất nước Việt Nam; số còn lại, Nguyễn Du đều lấy những đề tài lịch sử và những điều tai nghe mắt thấy trên con đường đi sứ sang Trung Quốc trong quãng thời gian ghi trên.

Thi phẩm được viết theo thể thơ “ca” và “hành”, hoặc gọi chung là “ca hành”.
Đây là một thể thơ cổ, có nguồn gốc từ ''thơ Nhạc phủ'' đời nhà Hán (Trung Quốc). Cổ Nhạc phủ có những bài như “Đoản ca hành”, Trường ca hành”, "Phụ bệnh hành"...Thông thường thì nó tường thuật một cảnh ngộ mà nhà thơ bất chợt nhìn thấy hoặc nghe kể lại, đồng thời nó nói lên những cảm nghĩ của nhà thơ trước tình cảnh đó. Nói gọn, thể “ca hành” đều dài, không hạn chế câu chữ, không cần niêm, đối chặt chẽ; và đều có tính tự sự, tính trữ tình.
Ngoài ''Long thành cầm giả ca'', Nguyễn Du còn viết Sở kiến hành theo thể thơ này.

Trích một vài nhận định:
Vô luận là “người con hát La thành”, “Tiểu Thanh” hay là “người đánh đàn Nguyễn” đất Long thành, họ đều là những người con gái có tài sắc và đều bị đánh vùi. Cũng như “Thúy Kiều”, những hình ảnh đó đều mang tính điển hình sâu sắc, phản ảnh hiện thực xã hội đương thời và đều đã tố cáo mạnh mẽ tính chất tàn nhẫn của xã hội đó.

Điểm lược lại một phần tiểu sử Nguyễn Du, để hiểu thêm nỗi lòng của ông trong bài thơ.

Trần Thị Tần (1740-1778), vợ quan Tư đồ Nguyễn Nghiễm (1708-1775), và là mẹ Nguyễn Du, sinh con trai đầu lòng lúc bà mới 17 tuổi. Sau bà còn có năm bà khác nữa, tuổi cũng xấp xỉ như nhau. ''Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền'' tất nhiên không nói, nhưng rõ ràng các bà không phải xuất thân ca kỹ, thì cũng vì có chút nhan sắc mà trở thành nàng hầu của quan lớn họ Nguyễn trên.
Lại nữa, sau khi cha và mẹ đều mất, 13 tuổi, Nguyễn Du phải đến ở với người anh khác mẹ hơn mình 31 tuổi, đó là quan Tham Tụng Nguyễn Khản (1734-1786). Đời sống ông anh họ này có ảnh hưởng rất lớn đối với nhà thơ. Ông Khản thi đỗ sớm, làm quan to, lại là một con người tài hoa, phong lưu rất mực. Phạm Đình Hổ, tác giả Vũ Trung tùy bút, chép:

“Ông Nguyễn Khản ham thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở, cũng cứ cho nó tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ tiếng trúc. Khi ông có tang quan Tư đồ (tức Nguyễn Nghiễm), ngày rỗi cũng vẫn sai con hát đồ khúc gọi là “ngâm thơ nôm”. Bọn con em họ quí thích đều bắt chước chơi bời, hầu như thành thói quen”.

Thuở nhỏ sống trong hoàn cảnh như vậy. Cái hoàn cảnh mà những người có chút nhan sắc hay có giọng hát hay, phải đem ra làm trò chơi cho kẻ quyền quí. Cho nên, trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Du, như: ''Truyện Kiều'', Văn tế thập loại chúng sinh, ''Long Thành cầm giả ca''...khi nói về họ, ông đều có thái độ trìu mến, xót thương và xem họ như những người ruột thịt.

Trước 1975, GS. Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam có nói đến một khía cạnh khác của bài thơ:
Từ xưa, người ta cứ cho rằng Nguyễn Du u uất vì mang mối tình với nhà Lê...Nhưng trong suốt sự nghiệp thơ văn chữ Hán của ông không có một nét nào cho thấy ông ghét Nguyễn, thương Lê cả. Ngay đến nhà Tây Sơn, Nguyễn Du còn chẳng tỏ vẻ gì thù ghét...mà còn đi ăn yến dự tiệc với các quan Tây Sơn như ông đã mô tả trong ''Long thành cầm giả ca''.
Hơn thế nữa, khi Tây Sơn thất bại, Nguyễn Du còn cảm thấy đau đớn, tiếc thương…nhất là khi nhìn thấy tất cả cái cơ nghiệp vĩ đại của nhà Tây Sơn chỉ còn lại có mỗi một cô ca sĩ già, nhà thơ đã đau lòng để nước mắt rơi ướt áo...
Như vậy cái tâm sự thầm kín, u uất mà Nguyễn Du không biết nói với ai, hẳn không phải tấm lòng hoài Lê, mà phải là cái gì thắm thiết, gắn liền với thân phận ông hơn…

Năm 2004, GS. Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học (bộ mới), cũng nêu ý tương tự:
Long thành cầm giả ca là tác phẩm viết về một con người tài hoa một thời, bây giờ nhan sắc tiều tụy, không còn ai chú ý đến nữa. Nhà thơ tỏ lòng xót thương ngậm ngùi của mình, và nghĩ đến cuộc đời dâu bể.
Bài thơ mang một tinh thần nhân đạo cao cả. Nhưng nó có một khía cạnh rất đáng chú ý là chính trong bài này, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất, Nguyễn Du nhắc đến nhà Tây Sơn. Thái độ của ông thế nào thật khó hiểu. Bài thơ không có tí gì gọi lả thù địch với Tây Sơn, mà trái lại, trong khi thương xót cho số phận của người ca nữ, nhà thơ lại có vẻ như ngậm ngùi cho sự sụp đổ của họ. Phải chăng đến giai đoạn này, do có nhiều thể nghiệm về cuộc sống, cho nên cách nhìn nhận của nhà thơ đối với triều đại trên có thay đổi gần với chân lý hơn…
Yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình hoà quyện tạo nên tinh thần nhân đạo trong bài thơ “Long thành cầm gia ca” của Nguyễn Du.
Lời kể về hai lần gặp người gảy đàn là cả một câu chuyện buồn.
Bài thơ có cấu trúc phức điệu liên hoàn. Trên cái trục thời gian 20 năm là hai bữa tiệc quan, là thăng và trầm, là hưng thịnh và tiêu vong, là vinh và nhục, là trẻ đẹp, tài hoa và đầu bạc, phai tàn…

Trong '''Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông...''' còn nêu thêm một khía cạnh khác.
Lược theo Gs. Nguyễn Huệ Chi, thì trong Long thành cầm giả ca, Nguyễn Du đã kể lại hai lần gặp gỡ một cô đào hát tên Cầm. Và từ cái biến đổi “nhãn tiền” của cô, nước mắt nhà thơ đã ướt đẫm vạt áo:
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch,
Trong làng múa hát còn sót lại một người!
Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt,
Cảm thương việc cũ lệ thấm áo...
Những giọt nước mắt kia, ngoài việc dành cho sự biến đổi chóng vánh của cuộc đời; nói rộng hơn và siêu hình hơn, theo giáo sư, nó còn dành cho nỗi buồn rầu về những gì “càng tài năng, càng thanh sắc” thì càng bị hủy diệt nhanh chóng. Và lúc bấy giờ, trong đầu Nguyễn Du, những lực lượng tàn phá ''mọi cái hay cái đẹp'' của xã hội chỉ có thể tổng quát thành "số mệnh", như ''số mệnh'' làm cho làm cho cơ nghiệp Tây Sơn sụp đổ...
Sau này, ở bài ''Sở Bá Vương mộ'', nhà thơ cũng đã đổ cho số mệnh:
Có sức mạnh dời núi nhắc vạc, nhưng trời không giúp thì làm thế nào?
Mối hận nghìn đời, đành gửi dưới lớp cát mỏng ...
Và cũng chính số mệnh đã vùi dập cuộc đời của Tiểu Thanh (Độc Tiểu Thanh ký), của Thúy Kiều - Từ Hải, hai nhân vật tiêu biểu nhất cho “tài và tình…” Các nghiên cứu Truyện Kiều trước 1975 ở Sài Gòn, như Thanh Lãng, Thạch Trung Giả, thường dùng cụm từ “tài mệnh tương đố” hay "tài mệnh tương phương" để chỉ vấn đề này.

Bài thơ kể về hai lần gặp người gảy đàn này là cả một câu chuyện buồn. Trên cái trục thời gian 20 năm là hai bữa tiệc quan, là thăng và trầm, là hưng thịnh và tiêu vong, là vinh và nhục, là trẻ đẹp, tài hoa và đầu bạc, phai tàn... Quá khứ hiện về trong hiện tại mà tiếng đàn xưa và tiếng đàn nay đã làm rơi bao nước măt, tê tái đau xót “như xé tấc son”...
Trải qua mấy chục năm dài loạn lạc, nếm đủ mùi cay đắng nghiệt ngã. Nguyễn Du đã làm xúc động và lay động hồn người đọc về cái nghịch lý giữa tài sắc và bạc mệnh, giữa tài tử với đa cùng...
Người gảy đàn ở Long thành là một chứng nhân lịch sử, và đã cùng tác giả trở thành số phận lịch sử. Bài thơ Long thành cầm giả ca giúp người đọc thấm thía cảm nhận về cái “hận”, cái “lụy” của những tài tử, giai nhân xưa, nay…
Và như đã nói, nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn của hai yếu tố tự sự và trữ tình, thi phẩm đã thể hiện được một tinh thần nhân đạo cao cả.
 

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved