
29/03/2024
29/03/2024
Không phải ngẫu nhiên mà Rasul Gamzatov đã từng tâm niệm rằng: "Thơ ca bắt nguồn từ những âm vang của tâm hồn”. Thật vậy, thơ ca muôn đời là nơi bộc lộ những trở trăn, những thổn thức của trái tim người nghệ sĩ trước cuộc đời. Và thơ của Nguyễn Bảo cũng chính là nỗi niềm chân thành của thi nhân. Đến với thế giới nghệ thuật của nhà thơ, người đọc sẽ bắt gặp những cảm xúc đầy dư âm qua thi phẩm “Chiều xuân ở thôn Trừng Mại”.
“Phân phất mưa phùn xâm xẩm bay
Mặc manh áo ngắn giục trâu cày
Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó
Bà lão chiều còn xới đậu đây
Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn
Khoai trong đám cỏ đã xanh cây
Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú
Dẫu chẳng “hành môn” đói cũng khuây”.
Nguyễn Bảo, nhà thơ - danh nhân văn hóa Việt Nam, là một trong những nhân vật trọng yếu trên nhiều lĩnh vực hoạt động ở thế kỉ XV. Trong sự nghiệp trước của Nguyễn Bảo, thơ ca là bộ phận đặc sắc, thể hiện cống hiến quan trọng nhất của ông. Thơ ca của ông có nội dung phong phú, bao gồm nhiều mảng đề tài lớn, như: đề tài viết về cảnh sắc những miền quê, đề tài viết về lịch sử - phong vật đất nước, đề tài viết về đời sống nông thôn... Điểm chung của các đề tài trên đó là đều thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc sống, con người của tác giả. Những vần thơ thật đẹp, thật giản dị, chân chất nhưng sâu xa, là niềm thương nước, ưu dân… được lọc qua một tâm hồn đồng điệu, tinh tế.
Bài thơ "Chiều xuân ở thôn Trừng Mại” là một tác phẩm xuất sắc của nhà thơ Nguyễn Bảo. Bài thơ đã vẽ lên bức tranh làng quê vào một buổi chiều xuân với những hình ảnh quen thuộc, mộc mạc: mưa phùn, trâu cày, gieo dưa, xới đậu, mía nảy ngọn, khoai xanh cây. Tất cả đều mang vẻ đẹp giản dị, chân chất của làng quê Việt Nam. Qua đó, thể hiện tấm lòng yêu quê hương, gắn bó sâu đậm của thi nhân.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mùa xuân miền Bắc với hình ảnh của mưa phùn:
“Phân phất mưa phùn xâm xẩm mày”.
Câu thơ mở đầu là một sáng tạo thú vị của nhà thơ. Đáng lẽ ra, nhà thơ phải viết là "Mưa phùn xâm xẩm bay phân phất" nhưng tác giả đã đảo cụm từ "phân phất" lên đầu câu nhấn mạnh một cơn mưa phùn kéo dài. Mưa phùn là dấu hiệu của mùa xuân, đặc trưng riêng chỉ mùa xuân mới có. Mưa phùn ngày xuân như liều thuốc quý giá giúp cây cối đâm chồi nảy lộc, muôn hoa bừng tỉnh và khoe sắc sau những ngày trời lạnh giá, u ám.
Xuất hiện dưới bức tranh mưa xuân ấy là hình ảnh con người hiện lên với công việc lao động thân thương, gần gũi:
“Mặc manh áo ngắn giục trâu cày
Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó
Bà lão chiều còn xới đậu đây”.
Hình ảnh con người hiện lên với "manh áo ngắn”, cho thấy được cuộc sống vất vả, nghèo khó nơi thôn quê. Từ thời xa xưa, ông cha ta thường nói rằng: "Con trâu là đầu cơ nghiệp” và hình ảnh con trâu đi vào thơ ca, ca dao dân ca rất phong phú. Câu thơ hiện lên hình ảnh người lao động với con trâu. Công việc ở đây là giục trâu cày. Những chú trâu giúp người nông dân xới những mảnh đất xốp hơn. Hình ảnh "manh áo ngắn” và hình ảnh con trâu gợi cho người đọc những nét giản dị gần gũi nơi thôn quê, cho thấy được cuộc sống lam lũ, vất vả của người dân vùng thôn quê. Hai câu thơ tiếp, nhà thơ miêu tả chi tiết công việc của nàng dâu và bà lão. Thời gian được nhắc đến là "sớm” và "chiều”, đó là khoảng thời gian bắt đầu và kết thúc của một ngày. Ấy thế mà hiện lên hình ảnh nàng dâu và bà lão vẫn cặm cụi làm việc. Công việc của nàng dâu là gieo dưa, và bà cụ lão xới đậu. Dưới cơn mưa xuân lất phất, hình ảnh con người trong công việc càng thêm đáng yêu, đáng kính, đáng trân trọng hơn bao giờ hết, con người chịu thương chịu khó. Hơn nữa, mưa xuân còn làm cho mọi vật trở nên sinh sôi, nảy nở:
“Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn
Khoai trong đám cỏ đã xanh cây”
Nhà thơ đã miêu tả cảnh vật như khoác trên mình chiếc áo mới "đang nảy ngọn, đã xanh cây”. Mùa xuân về, đất trời lũ lượt thay áo mới. Bao nhiêu nhựa sống, bao nhiêu say mê đã được ấp ủ dưới lớp vỏ xơ xác của mùa đông, nay được bung tỏa hết, cho thấy được sự trù phú của cảnh vật.
Hai câu thơ cuối đã bộc lộ tình cảm của thi sĩ, đó là tình yêu thương, gắn bó với quê hương:
“Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú
Dẫu chẳng “hành môn” đói cũng khuây”.
Thú điền viên là thú vui nơi thôn dã, ruộng vườn, thường để chỉ những vị quan lui về ở ẩn. Nguyễn Bảo là vị quan có tấm lòng yêu nước thương dân. Bài thơ ra đời trong bối cảnh thi sĩ lui về quê ở ẩn, và dạy học, bà con khắp xứ gần xa đều tìm đến xin cho con cháu mình theo học. Vì vậy mà ông có điều kiện gần gũi với nhân dân. Mỗi mỗi tứ thơ của ông như một bức tranh bình dị, chất phác mà vẫn ấm áp cái chân, tình yêu tha thiết những con người lao động. Nguyễn Bảo đã gửi gắm tấm lòng yêu quê tha thiết. Bức tranh quê hương với đường nét, màu sắc, âm thanh, có lúc giống như tranh thủy mặc, có lúc lại rất sống động như chính cuộc sống đang hiện ra trước mắt người đọc.
Bài thơ là một sáng tạo của thi nhân. Bức tranh quê hương vô cùng giản dị nhưng thi sĩ vẽ lên bằng cách mượn ngòi bút của văn chương đã phát họa nó đẹp hơn bao giờ, thấy được sự gần gũi hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật cùng với cách ngắt nhịp khéo léo. Nhà thơ đã sử dụng biệp pháp đảo ngữ, nhân hóa, phép đối,.. một cách tài tình. Qua đó, nhà thơ muốn gửi đến đôc giả một thông điệp vô cùng sâu sắc. Thi sĩ muốn nhấn mạnh sự khổ công và sự kiên nhẫn trong cuộc sống nông thôn. Dù cuộc sống khó khăn và vất vả, nhưng người dân nông thôn vẫn không ngại lao động để trồng trọt và chăm sóc cây cỏ. Bài thơ tôn vinh những nghĩa cử đơn giản nhưng ý nghĩa của con người nông thôn.
Nếu họa sĩ dùng màu sắc để vẽ tranh, nhà điêu khắc dùnh đường nét để khắc họa, nhạc sĩ dùng âm nhạc để nói lên nỗi lòng của mình, thì nhà văn dùng ngòi bút văn chương để tạo ra đứa con tinh thần của mình. Và bài thơ “Chiều xuân ở thôn Trừng Mại” là một khúc ca tuyệt vời của nhà thơ Nguyễn Bảo, để lại trong lòng người đọc biết bao dư âm.
28/08/2025
"Thơ ca bắt nguồn từ những âm vang của tâm hồn." Thật vậy, thơ ca từ xưa đến nay luôn là nơi bộc lộ những trăn trở, những nỗi niềm thầm kín của trái tim người nghệ sĩ trước cuộc sống. Và thơ của Nguyễn Bảo chính là sự bộc lộ chân thành của thi nhân về thế giới xung quanh mình. Đọc thơ ông, người đọc sẽ cảm nhận được những cảm xúc ngập tràn dư âm qua tác phẩm nổi bật "Chiều xuân ở thôn Trừng Mại". Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu không chỉ thể hiện sự tài hoa của nhà thơ mà còn bộc lộ sâu sắc tình yêu quê hương, đất nước, con người trong những năm tháng gian khó.
"Phân phất mưa phùn xâm xẩm bay
Mặc manh áo ngắn giục trâu cày
Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó
Bà lão chiều còn xới đậu đây
Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn
Khoai trong đám cỏ đã xanh cây
Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú
Dẫu chẳng 'hành môn' đói cũng khuây."
Nguyễn Bảo là một nhà thơ và danh nhân văn hóa Việt Nam nổi tiếng vào thế kỷ XV, người có đóng góp to lớn trong nhiều lĩnh vực, từ văn hóa đến chính trị. Thế nhưng, trong sự nghiệp của ông, thơ ca chính là phần quan trọng nhất, thể hiện rõ ràng nhất những giá trị văn hóa và tinh thần mà ông muốn gửi gắm. Thơ ca của ông rất đa dạng với nhiều chủ đề khác nhau: từ tình yêu thiên nhiên, đất nước, đến các vấn đề xã hội và đời sống nông thôn. Tuy nhiên, điểm chung trong tất cả các tác phẩm của Nguyễn Bảo là một tình yêu vô bờ bến đối với quê hương, con người, đất nước. Thơ của ông giản dị, mộc mạc, nhưng lại đượm đà, sâu sắc và thể hiện lòng yêu thương, sự cảm nhận tinh tế về cuộc sống và con người trong mọi hoàn cảnh.
Bài thơ "Chiều xuân ở thôn Trừng Mại" của Nguyễn Bảo vẽ nên một bức tranh quê hương đẹp như mơ, với những hình ảnh gần gũi và mộc mạc: mưa phùn, trâu cày, gieo dưa, xới đậu, mía nảy ngọn, khoai xanh cây. Tất cả những hình ảnh đó không chỉ mang vẻ đẹp giản dị, chân chất mà còn phản ánh một cuộc sống thanh bình, yêu thương, gắn bó với thiên nhiên và con người. Trong bài thơ này, Nguyễn Bảo đã dùng ngòi bút của mình để tái hiện một buổi chiều xuân miền Bắc, nơi mà đất trời đang vào độ tươi mới, cây cối đang đâm chồi nảy lộc, và con người vẫn tiếp tục với những công việc lao động cần cù của mình.
Ngay từ câu mở đầu, nhà thơ đã khắc họa cảnh sắc mùa xuân miền Bắc với hình ảnh mưa phùn đặc trưng:
“Phân phất mưa phùn xâm xẩm mày.”
Nguyễn Bảo đã sử dụng một cách sáng tạo khi đảo từ “phân phất” lên đầu câu, tạo ra sự nhấn mạnh và cho thấy tính chất mưa phùn kéo dài, nhẹ nhàng nhưng sâu lắng. Mưa phùn là biểu tượng đặc trưng của mùa xuân miền Bắc, không chỉ báo hiệu sự chuyển mùa từ lạnh giá sang ấm áp, mà còn là nguồn sống cho cây cối, giúp đất đai tươi tốt, màu mỡ. Mưa phùn cũng là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca, được gắn liền với sự sinh sôi, nảy nở của thiên nhiên và tạo ra một bức tranh tràn đầy sức sống.
Cùng với hình ảnh mưa phùn, hình ảnh con người trong lao động cũng được nhà thơ khắc họa rất sinh động. Những công việc lao động của người dân được mô tả qua các hình ảnh: “Mặc manh áo ngắn giục trâu cày, Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó, Bà lão chiều còn xới đậu đây.”
Hình ảnh "manh áo ngắn" và "trâu cày" không chỉ phản ánh sự nghèo khó, vất vả của người nông dân, mà còn thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa con người và đất đai, giữa lao động và thiên nhiên. Câu thơ thể hiện được sự nhọc nhằn của người nông dân trong công việc đồng áng, nơi mà mỗi ngày là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để có thể sinh tồn và duy trì cuộc sống. Từ hình ảnh nàng dâu gieo dưa, đến bà lão xới đậu, tất cả đều là những công việc lao động thường ngày của người dân thôn quê, nhưng qua lời thơ của Nguyễn Bảo, những công việc ấy trở nên đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Cảnh vật và con người trong bài thơ hiện lên với vẻ đẹp giản dị nhưng cũng hết sức vĩ đại, thể hiện tình yêu thương và lòng trân trọng của nhà thơ đối với những người lao động cần cù.
Tiếp theo, những hình ảnh cây cối đang sinh sôi nảy nở được miêu tả rất tươi mới:
“Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn
Khoai trong đám cỏ đã xanh cây.”
Lắng đọng qua hình ảnh mía nảy ngọn và khoai xanh cây không chỉ là biểu tượng của sự phát triển mạnh mẽ trong mùa xuân, mà còn phản ánh sự sống vươn lên, không ngừng tìm kiếm cơ hội để tồn tại và phát triển. Những mầm cây, nhánh mía đang lớn lên, chính là hình ảnh của cuộc sống luôn có sự đổi mới, luôn tìm ra con đường vươn lên dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất.
Cuối bài thơ, nhà thơ thể hiện tình yêu với cuộc sống nơi làng quê qua câu thơ:
“Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú
Dẫu chẳng ‘hành môn’ đói cũng khuây.”
Chính lối sống điền viên – một cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, ruộng vườn – đã trở thành niềm vui lớn nhất của Nguyễn Bảo. Dù trong hoàn cảnh sống khó khăn, thiếu thốn, nhưng người dân vẫn tìm thấy niềm vui trong công việc lao động, trong sự hòa hợp với thiên nhiên và trong những giá trị tinh thần mà cuộc sống mang lại. Câu thơ thể hiện một thông điệp sâu sắc về sự kiên nhẫn và sự hài lòng với cuộc sống giản dị, đồng thời cũng là lời ca ngợi những con người cần cù, chịu thương chịu khó.
Như vậy, bài thơ "Chiều xuân ở thôn Trừng Mại" không chỉ là một bức tranh về làng quê Việt Nam với những hình ảnh giản dị, gần gũi mà còn chứa đựng tình cảm chân thành của nhà thơ Nguyễn Bảo đối với quê hương và con người. Bài thơ là sự kết hợp tuyệt vời giữa thiên nhiên và con người, giữa quá khứ và hiện tại, mang đến cho người đọc một cảm giác bình yên, tĩnh lặng và tràn đầy tình yêu thương.
Bằng sự tài hoa trong ngôn từ, Nguyễn Bảo đã vẽ nên một bức tranh quê hương tươi đẹp, nơi mà thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một khúc ca tuyệt vời về tình yêu quê hương, về những người lao động thầm lặng. Bài thơ là một minh chứng rõ ràng cho sự sáng tạo của thi nhân và là niềm tự hào của văn học dân tộc.
28/08/2025
Không phải ngẫu nhiên mà Rasul Gamzatov đã từng tâm niệm rằng: "Thơ ca bắt nguồn từ những âm vang của tâm hồn”. Thật vậy, thơ ca muôn đời là nơi bộc lộ những trở trăn, những thổn thức của trái tim người nghệ sĩ trước cuộc đời. Và thơ của Nguyễn Bảo cũng chính là nỗi niềm chân thành của thi nhân. Đến với thế giới nghệ thuật của nhà thơ, người đọc sẽ bắt gặp những cảm xúc đầy dư âm qua thi phẩm “Chiều xuân ở thôn Trừng Mại”.
“Phân phất mưa phùn xâm xẩm bay
Mặc manh áo ngắn giục trâu cày
Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó
Bà lão chiều còn xới đậu đây
Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn
Khoai trong đám cỏ đã xanh cây
Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú
Dẫu chẳng “hành môn” đói cũng khuây”.
Nguyễn Bảo, nhà thơ - danh nhân văn hóa Việt Nam, là một trong những nhân vật trọng yếu trên nhiều lĩnh vực hoạt động ở thế kỉ XV. Trong sự nghiệp trước của Nguyễn Bảo, thơ ca là bộ phận đặc sắc, thể hiện cống hiến quan trọng nhất của ông. Thơ ca của ông có nội dung phong phú, bao gồm nhiều mảng đề tài lớn, như: đề tài viết về cảnh sắc những miền quê, đề tài viết về lịch sử - phong vật đất nước, đề tài viết về đời sống nông thôn... Điểm chung của các đề tài trên đó là đều thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc sống, con người của tác giả. Những vần thơ thật đẹp, thật giản dị, chân chất nhưng sâu xa, là niềm thương nước, ưu dân… được lọc qua một tâm hồn đồng điệu, tinh tế.
Bài thơ "Chiều xuân ở thôn Trừng Mại” là một tác phẩm xuất sắc của nhà thơ Nguyễn Bảo. Bài thơ đã vẽ lên bức tranh làng quê vào một buổi chiều xuân với những hình ảnh quen thuộc, mộc mạc: mưa phùn, trâu cày, gieo dưa, xới đậu, mía nảy ngọn, khoai xanh cây. Tất cả đều mang vẻ đẹp giản dị, chân chất của làng quê Việt Nam. Qua đó, thể hiện tấm lòng yêu quê hương, gắn bó sâu đậm của thi nhân.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mùa xuân miền Bắc với hình ảnh của mưa phùn:
“Phân phất mưa phùn xâm xẩm mày”.
Câu thơ mở đầu là một sáng tạo thú vị của nhà thơ. Đáng lẽ ra, nhà thơ phải viết là "Mưa phùn xâm xẩm bay phân phất" nhưng tác giả đã đảo cụm từ "phân phất" lên đầu câu nhấn mạnh một cơn mưa phùn kéo dài. Mưa phùn là dấu hiệu của mùa xuân, đặc trưng riêng chỉ mùa xuân mới có. Mưa phùn ngày xuân như liều thuốc quý giá giúp cây cối đâm chồi nảy lộc, muôn hoa bừng tỉnh và khoe sắc sau những ngày trời lạnh giá, u ám.
Xuất hiện dưới bức tranh mưa xuân ấy là hình ảnh con người hiện lên với công việc lao động thân thương, gần gũi:
“Mặc manh áo ngắn giục trâu cày
Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó
Bà lão chiều còn xới đậu đây”.
Hình ảnh con người hiện lên với "manh áo ngắn”, cho thấy được cuộc sống vất vả, nghèo khó nơi thôn quê. Từ thời xa xưa, ông cha ta thường nói rằng: "Con trâu là đầu cơ nghiệp” và hình ảnh con trâu đi vào thơ ca, ca dao dân ca rất phong phú. Câu thơ hiện lên hình ảnh người lao động với con trâu. Công việc ở đây là giục trâu cày. Những chú trâu giúp người nông dân xới những mảnh đất xốp hơn. Hình ảnh "manh áo ngắn” và hình ảnh con trâu gợi cho người đọc những nét giản dị gần gũi nơi thôn quê, cho thấy được cuộc sống lam lũ, vất vả của người dân vùng thôn quê. Hai câu thơ tiếp, nhà thơ miêu tả chi tiết công việc của nàng dâu và bà lão. Thời gian được nhắc đến là "sớm” và "chiều”, đó là khoảng thời gian bắt đầu và kết thúc của một ngày. Ấy thế mà hiện lên hình ảnh nàng dâu và bà lão vẫn cặm cụi làm việc. Công việc của nàng dâu là gieo dưa, và bà cụ lão xới đậu. Dưới cơn mưa xuân lất phất, hình ảnh con người trong công việc càng thêm đáng yêu, đáng kính, đáng trân trọng hơn bao giờ hết, con người chịu thương chịu khó. Hơn nữa, mưa xuân còn làm cho mọi vật trở nên sinh sôi, nảy nở:
“Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn
Khoai trong đám cỏ đã xanh cây”
Nhà thơ đã miêu tả cảnh vật như khoác trên mình chiếc áo mới "đang nảy ngọn, đã xanh cây”. Mùa xuân về, đất trời lũ lượt thay áo mới. Bao nhiêu nhựa sống, bao nhiêu say mê đã được ấp ủ dưới lớp vỏ xơ xác của mùa đông, nay được bung tỏa hết, cho thấy được sự trù phú của cảnh vật.
Hai câu thơ cuối đã bộc lộ tình cảm của thi sĩ, đó là tình yêu thương, gắn bó với quê hương:
“Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú
Dẫu chẳng “hành môn” đói cũng khuây”.
Thú điền viên là thú vui nơi thôn dã, ruộng vườn, thường để chỉ những vị quan lui về ở ẩn. Nguyễn Bảo là vị quan có tấm lòng yêu nước thương dân. Bài thơ ra đời trong bối cảnh thi sĩ lui về quê ở ẩn, và dạy học, bà con khắp xứ gần xa đều tìm đến xin cho con cháu mình theo học. Vì vậy mà ông có điều kiện gần gũi với nhân dân. Mỗi mỗi tứ thơ của ông như một bức tranh bình dị, chất phác mà vẫn ấm áp cái chân, tình yêu tha thiết những con người lao động. Nguyễn Bảo đã gửi gắm tấm lòng yêu quê tha thiết. Bức tranh quê hương với đường nét, màu sắc, âm thanh, có lúc giống như tranh thủy mặc, có lúc lại rất sống động như chính cuộc sống đang hiện ra trước mắt người đọc.
Bài thơ là một sáng tạo của thi nhân. Bức tranh quê hương vô cùng giản dị nhưng thi sĩ vẽ lên bằng cách mượn ngòi bút của văn chương đã phát họa nó đẹp hơn bao giờ, thấy được sự gần gũi hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật cùng với cách ngắt nhịp khéo léo. Nhà thơ đã sử dụng biệp pháp đảo ngữ, nhân hóa, phép đối,.. một cách tài tình. Qua đó, nhà thơ muốn gửi đến đôc giả một thông điệp vô cùng sâu sắc. Thi sĩ muốn nhấn mạnh sự khổ công và sự kiên nhẫn trong cuộc sống nông thôn. Dù cuộc sống khó khăn và vất vả, nhưng người dân nông thôn vẫn không ngại lao động để trồng trọt và chăm sóc cây cỏ. Bài thơ tôn vinh những nghĩa cử đơn giản nhưng ý nghĩa của con người nông thôn.
Nếu họa sĩ dùng màu sắc để vẽ tranh, nhà điêu khắc dùnh đường nét để khắc họa, nhạc sĩ dùng âm nhạc để nói lên nỗi lòng của mình, thì nhà văn dùng ngòi bút văn chương để tạo ra đứa con tinh thần của mình. Và bài thơ “Chiều xuân ở thôn Trừng Mại” là một khúc ca tuyệt vời của nhà thơ Nguyễn Bảo, để lại trong lòng người đọc biết bao dư âm.
07/03/2025
Viết bài thơ phân tích chiều xuân ở thôn trừng mại
29/03/2024
Ng ThảoBài thơ "Chiều xuân ở thôn Trừng Mại" của Nguyễn Bảo là một tác phẩm thơ nổi tiếng trong văn học Việt Nam, nói về cảnh đẹp của một buổi chiều xuân tại miền quê Trừng Mại. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh sống động để mô tả cuộc sống và công việc của người nông dân trong làng quê.
Trong bài thơ, từ câu "Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó" cho thấy sự chăm chỉ, siêng năng của người phụ nữ trong việc canh tác, gieo trồng cây cỏ. Câu này cũng thể hiện sự kỳ vọng vào một mùa vụ bội thu sau khi đã gieo trồng.
Tiếp theo, "Bà lão chiều còn xới đậu đây" cho ta thấy hình ảnh của người già vẫn lao động chăm chỉ vào cuối ngày, không biết mệt mỏi hay buồn chán. Họ luôn hy vọng vào một cuộc sống tươi đẹp và sản xuất được nhiều hơn.
Nhìn chung, bài thơ "Chiều xuân ở thôn Trừng Mại" không chỉ là bức tranh sinh động về cuộc sống quê hương mà còn là lời ca tỏ lòng yêu quý và biết ơn đất nước, con người Việt Nam.
Trang Trần
08/03/2025
Viết cho mình đề y vậy mà bài khác đi ạ
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời