07/04/2024

07/04/2024
07/04/2024
Cùng là thơ trào phúng, nếu Trần Tú Xương góc cạnh, sâu cay bao nhiêu thì Nguyễn Khuyến lại nhẹ nhàng, kín đáo bấy nhiêu. Giáo sư Dương Quảng Hàm từng nhận xét chất trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến chính là lời của bậc đại nhân quân tử dùng để khuyên răn người đời. Đặc điểm đó của bút pháp trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến được khắc họa rõ nét qua tác phẩm thơ Tiến sĩ giấy.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã sáng tác Tiến sĩ giấy theo thể thơ thất ngôn bát cú - một thể thơ đường luật vô cùng quen thuộc với các cây bút thời trung đại. Bài thơ đi theo cấu tứ đề thực luận kết rất chỉn chu, mẫu mực, với các thi pháp văn học trung đại tinh tế đã làm bật lên nét sang trọng trong thơ ông.
“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.”
Ngay hai câu đề, điệp từ “cũng” đã đươcn xuất hiện liên tiếp bốn lần. Từ “cũng” gợi lên cảm giác khá khiên cưỡng với sự vật xuất hiện phía sau nó. Khiến những cờ, biển, cân đai trở nên kém phần oai nghiêm, trang trọng. Theo đó, tác giả liệt lê ra các phục sức xuất hiện trên người của một vị tiến sĩ - người có chức quan đỗ cao nhất trong một kì thi lớn, đứng đầu bảng vàng. Đó là những món đồ sang quý, biểu tượng cho người có vị thế, được nhiều người kính trọng. Biết bao sĩ tử tham gia vào con đường thi cử đều ao ước được mặc lên người những phujmc sức đó. Tuy nhiên, khi các phục sức cao quý ấy được liệt kê bằng điệp từ cũng mang vẻ khoe khoang, thì bỗng nhiên lại mang đậm tính mỉa mai. Đến cả danh xưng “ông nghè” oai phong cũng không nằm ngoài số phận đấy. Đặc biệt khi nó được đi cùng với cụm từ “có kém ai”. Cụm từ ấy khiến cho chức vị ông nghè trở nên giải dối, học đòi, không có vẻ trang nhã của người có học thức. Nhưng vì sao tác giả lại mập mờ về thái độ với vị tiến sĩ này như vậy? Điều đó được nêu rõ ở hai câu thực tiếp theo.
“Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.”
Ở đây, nhà thơ đã khẳng định sự tinh tế của bản thân khi sử dụng nghệ thuật đối một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên. Mảnh giấy đối với thân giáp bảng, nét son đối với mặt văn khôi. Thông thường, phép đối trong thơ trung đại rất tôn sùng sự đăng đối, ngang hàng với nhau, nhưng trong hai câu thơ này, sự đăng đối có phần khiên cưỡng. Giáp bảng là bảng rồng công bố danh sách thi sinh đỗ bảng vàng. Thân giáp bảng là người đỗ đạt cao, được bao người trọng vọng, ấy thế mà lại đối với một mảnh giấy vụn. Khuôn mặt tuấn tú, uy nghiêm của một trạng nguyên thì lại đối với một nét bút mực chấm đỏ. Sự chênh lệch một trời một vực về tính chất, giá trị của cả hai vế lúc này được hiển thị rõ ràng. Bởi thật ra, vị tiến sĩ này chính là một vị tiến sĩ làm từ giấy - món đồ chơi phổ biến trong dân gian. Sự đăng đối một cách kì lạ giữa các vế thơ đã được làm sáng tỏ. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở tầng nghĩa đó, thì còn đâu là thơ Nguyễn Khuyến. Từ đầu đến cuối, chẳng có câu chữ nào nói rằng nhà thơ đang tả một món đồ chơi cả. Thật thật, giả giả chẳng biết đâu mà phán đoán. Đó cũng chính là ngụ ý của nhà thơ. Một món đồ chơi tiến sĩ chỉ cần mẩu giấy vụn, chấm một nét mực là đã có thể tạo thành. Quá đơn giản và dễ dàng. Cách để tạo ra một tiến sĩ thật cũng thế. Chỉ cần quan chấm thi ậm ừ một nét bút, thế là đã có một tiến sĩ ra lò. Thật ở cái chức danh, cái áo quan, cái mão đội trên đầu, nhưng giả ở cái nội tình bên trong, ở cái trí tuệ ở trong người. Hình dáng vị tiến sĩ thật và tiến sĩ giấy lồng ghép vào nhau, tuy hai mà một, tuy thật mà giả. Sự trào phúng thâm thúy qua câu từ đó, chính là thủ pháp đặc trưng của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
“Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.”
Đến với hai câu thơ luận, lần này, từ việc miêu tả khách quan chung chung để dẫn dắt người đọc. Thì lần này, nhà thơ đã chuyển sang nhận xét chủ quan. Vẫn là hình ảnh tấm xiêm áo, thân giáp bảng ở câu thực, lần này đã được nhận xét chi tiết thêm. Các tính từ “nhẹ”, “hời” khiến bộ phục sức của tiến sĩ càng thêm kém trang trọng. Xiêm áo đó nhẹ bởi vì nó là mẩu giấy vụn, nhưng cũng có lẽ bởi bên trọng nó rỗng tuếch, chẳng có chút phẩm đức, trí tuệ nào cả. Chiếc áo trạng nguyên quá rộng với một kẻ ngu dốt. Còn danh trạng nguyên thì lại quá hời. Từ hời được dùng cho một phi vụ buôn bán mà chỉ phải bỏ ra một chút vốn, đã đem lại được nhiều lợi ích. Ắt hẳn cái danh trạng nguyên và những thứ có được sau khi đỗ đạt còn nhiều hơn số tiền bỏ ra mua chức trạng nguyên. Phía sau sự chế giễu vẻ rỗng tuếch, hữu danh vô thực của ông tiến sĩ giấy kia, là sự giễu nhại những vị tiến sĩ đầu óc trống trơn, bụng chẳng được mấy trang kinh thư, chỉ dựa vào ít tiền của để vinh danh bảng vàng. Nhưng cùng với đó, là sự ngậm ngùi, chua xót cho chính thân phận mình. Bởi nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng là một tiến sĩ. Ông cay đắng thay cho phận mình, bởi giờ đây cái danh tiến sĩ đâu còn danh giá như xưa. Trong mắt thế nhân, nó chỉ là một món đồ chơi tầm thường có thể mua được bằng tiền mà thôi.
Nỗi niềm ấy, khiến nhà thơ lại càng thêm gay gắt, càng thêm chán ghét những tiến sĩ giấy ngoài kia. Lấy hai câu thơ luận làm đòn bẩy, Nguyễn Khuyến đi đến câu thơ kết mang nhiều suy tư và ngụ ý:
“Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi.”
“Ghế chéo, lọng xanh” là vị trí ngồi của một vị tiến sĩ - vị trí oai nghiêm bao học trò ngưỡng mộ. Nhưng dáng ngồi bảnh chọe của vị tiến sĩ rởm đã phá tan hoàn toàn bầu không khí đó. Tiến sĩ vốn là đại diện cho những người đứng đầu xã hội về học vấn, ấy thế mà lại bị miêu tả với dáng vẻ thô thiển, kệch cỡm của những kẻ mãng phu. Sự trào phúng ấy đã giáng một đòn chí mạng vào những kẻ học đòi kia. Vốn đã chẳng có trí tuệ, chẳng có học thức, nay đến vẻ ngoài cũng kệch cỡm, không bắt chước nổi cho ra dáng một vị tiến sĩ. Thế thì những kẻ đó có gì nhỉ? Chẳng có gì cả. Ở câu thơ cuối, nhà thơ sử dụng động từ “tưởng” để vạch trần sự giả dối của những tiến sĩ trên kia. Tưởng là đồ thật, hóa đồ chơi. Thì ra từ đầu bài thơ đến đây, tác giả vẫn còn ngờ ngợ về sự thực chất của các tiến sĩ. Nhưng giờ đây ông đã chắc chắn rằng, đó chỉ là đồ chơi mà thôi. Câu khẳng định ấy đã vạch trần tấm màn che cuối cùng, khiến các tiến sĩ rởm không còn chỗ ẩn náu nữa.
Mượn hình ảnh tiến sĩ giấy - một món đồ chơi dân gian, nhà thơ Nguyễn Khuyến dùng giọng điệu mỉa mai, trào phúng của mình để phê phán, vạch trần bộ mặt thật của các vị tiến sĩ đương thời. Đó là những kẻ bù nhìn, chỉ có vẻ ngoài kệch cỡm cố bắt chước, ra vẻ. Nhưng vì chẳng có nội hàm, cái đầu lại rỗng tuếch nên tự biến mình thành trò hề, thành món đồ chơi cho những kẻ cầm quyền. Những tiến sĩ đó là đại diện cho nền học vấn của nước nhà, đại diện cho cả một triều đình phong kiến. Sự giả tạo, rỗng tuếch của họ chính là đại biểu cho một triều đại mục rỗng ở bên trong. Đó cũng chính là một trong các lí do khiến Nguyễn Khuyến lựa chọn rời bỏ triều đình để ẩn cư.
07/04/2024
Nguyễn Khuyến, nhà thơ đại diện cho quê hương làng cảnh Việt Nam, đã sử dụng ngòi bút giản dị và ấm áp để mô tả đời sống nông thôn. Nhưng qua vần thơ, ông truyền đạt tâm trạng yêu nước, lòng u hoài trước những biến động của thời đại. Trong thế kỷ XIX, với những khó khăn về tư tưởng và kinh tế, nhà thơ cảm nhận sự bất lực. Bài thơ 'Tiến sĩ giấy' là sự trào phúng, châm biếm của Tam Nguyên Yên Đổ đối với những người mang danh tiến sĩ mà không có thực lực, đồng thời là lời tự trào của tác giả.
Tiêu đề bài thơ 'Tiến sĩ giấy' không chỉ là mô tả một phong cách văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt. Nó là hình ảnh của một chiếc nộm giấy dành cho trẻ em chơi trung thu, giả vờ là ông tiến sĩ để khuyến khích trẻ em ham học và có ý thức theo đuổi con đường học vấn. Tuy nhiên, từ từng từ trong văn bản, 'giấy' không chỉ đề cập đến chất liệu mà còn gợi lên hình ảnh về tính chất hư danh. Tên bài thơ 'Tiến sĩ giấy' là sự chọn lựa khôn ngoan của Nguyễn Khuyến, là cách tinh tế để chỉ trích tính chất hư danh của học vị tiến sĩ trong thời kỳ Hán học suy tàn, Tây học đang ngày càng lấn át.
Bài thơ mở đầu với hình tượng ông tiến sĩ giấy, đơn giản nhưng phác họa nét chung nhất:
'Cờ, biển, cân đai đều xuất hiện
Gọi ông nghè, không kém cạnh tranh.'
Nguyên tượng được Nguyễn Khuyến mô tả với 'cờ', 'biển' - tấm biển gỗ in chữ 'ân tứ vinh quy', và 'cân đai' - khăn bịt tóc đeo mũ và đeo đai ngang lưng. Tất cả những yếu tố này tạo nên bức tranh về trang phục của quan lại, quý tộc thời phong kiến. Tuy nhiên, sự lặp lại của từ 'cũng' bốn lần ở đầu mỗi dòng thơ làm cho đối tượng không thể được đánh giá cao. Dường như giống nhau, nhưng thực tế đó chỉ là ông tiến sĩ giấy, chỉ là đồ chơi làm bằng giấy cho trẻ con. Câu thơ vì thế mang nét mỉa mai, châm biếm của tác giả.
Chuyển sang hai câu thực tế, hình ảnh tiến sĩ giấy được phác thảo rõ ràng hơn:
'Mảnh giấy tạo nên thân áo bảng
Vẻ văn khôi được son điểm rõ.'
'Tiến sĩ giấy chỉ cần vài tờ giấy là hình thành, vài nét son tạo nên bức tranh văn khôi.'
'Tấm thân xiêm áo sao lại nhẹ thế, giá trị của danh hiệu tiến sĩ mới thật lợi hại.'
Chuyển đến thực tế, để trở thành tiến sĩ mang danh vị cao, cần bao nhiêu cố gắng, mồ hôi, ngày đêm công châm mài mòn kiến thức, nhưng giờ đây, 'tấm thân xiêm áo sao lại nhẹ thế'. Tình hình xã hội thời bấy giờ với sự thay đổi trong cách tuyển chọn nhân tài, việc mua danh bán chức trở nên phổ biến, tạo ra những người chỉ có danh vị mà không có kiến thức thực sự. Hậu quả là những người tài năng, có kiến thức thực sự, cao cấp không khác gì những kẻ 'tiến sĩ giấy'. Giọng điệu của hai câu thơ, đặc biệt là 'cái giá khoa danh ấy mới hời', phản ánh sự châm biếm của nhà thơ về tình hình xã hội, đồng thời cũng làm nổi bật nét trào phúng. Tác giả không chỉ mỉa mai thực trạng xã hội, mà còn cười châm chọc người khác và chính bản thân, đồng thời đau xót cho cả đất nước.
Tiếng cười từ hai câu thực tế đã đắng cay, sâu sắc, nhưng đến hai câu thơ kết, tính chất trào phúng của bài thơ mới thực sự đạt đến đỉnh cao, phá vỡ giả tưởng ở các câu thơ trước:
'Ngồi trên ghế tréo lọng xanh, tỏ ra bảnh chọe, cứ nghĩ đồ thật, lại hóa ra đồ chơi.'
Hình ảnh ông tiến sĩ giấy xuất hiện, thể hiện với tư thế 'ngồi bảnh chọe', vẻ oai vệ, lối ăn mặc sang trọng, đậm chất đại diện. Tác giả phát đi sự phê phán với những người sử dụng tiền bạc để mua quyền lực, không chỉ thế, họ còn thích thể hiện, làm lễ. Tất cả tạo nên ông tiến sĩ giấy, một hình ảnh lố bịch, đáng khinh. Kết thúc bài thơ, tác giả tỏ ý một cách trực tiếp: 'nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi'. Tưởng là thật nhưng cuối cùng chỉ là một đồ chơi bằng giấy, làm bất ngờ độc giả nhưng lại hoàn toàn hợp lý khi xét đến tự nhiên. Nhà thơ như đang mô tả bản chất trống rỗng, chỉ có hư danh mà không có kiến thức của những người có vẻ cao quý trong xã hội. Là người trực tiếp trải qua, thấy rõ bức tranh xã hội, rằng những người chỉ có danh vị mà không có kiến thức thực sự được đánh giá cao, Nguyễn Khuyến chỉ biết bày tỏ mỉa mai và xót xa cho bản thân mình:
'Thậm chí nghĩ về bản thân cũng thấy tởm tởm, Nhưng rồi, bia xanh, bảng vàng đâu còn thấy.'
Bài thơ sử dụng hình ảnh tiến sĩ giấy để chỉ trích những người có danh vị khoa bảng nhưng thiếu kiến thức thực tế. Thái độ mỉa mai của nhà thơ cũng được thể hiện trong tác phẩm. Không chỉ giới hạn trong thời kỳ của Nguyễn Khuyến, hiện tượng này là vấn đề nóng của xã hội ở mọi thời đại. Để cải thiện, cần nhìn nhận rõ những khía cạnh tiêu cực của thực tế, từ đó xây dựng một xã hội bình đẳng và tiến bộ.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời