13/05/2024

13/05/2024
13/05/2024
"Tự lực văn đoàn" là nhóm bút phát triển mạnh mẽ trong thời kì văn học lãng mạn 1930 - 1945. Nhóm bút này có những cây viết rất độc đáo, sáng tạo và có tầm ảnh hưởng tới phần lớn các nam thanh, nữ tú thời bấy giờ. Bên cạnh những bài thơ được ví von như "ngôn tình thời xưa" được viết bởi nhà thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên... thì nhà văn Thạch Lam lại là một cái tên nổi bật trong làng truyện ngắn xuất thân từ nhóm bút này. Với những "Gió đầu mùa", "Nhà mẹ Lê"....đã khẳng định được vị trí của ông đối với nền văn học nước nhà. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là truyện ngắn "Hai đứa trẻ". Trong tác phẩm đã khắc hoạ một cách chân thực, rõ nét nhưng cũng vô cùng lãng mạn cái khung cảnh buổi chiều tàn bên con phố huyện vắng vẻ, nổi bật lên là hình ảnh cô bé Liên với những dòng xúc cảm, hồi tưởng xốn xang đến nao lòng.
Gọi là truyện, thế nhưng truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam thường không mang tính kể hay có những diễn biến phức tạp. "Hai đứa trẻ" được viết như một chuyến du hành thời gian, có hiện tại, có quá khứ nhưng lại không có tình huống mở đầu hay thắt nút. Tác giả dường như muốn đặc tả không gian phố huyện nghèo có đường tàu chạy qua, nơi mà niềm vui của những đứa trẻ được gói gọn trong ngắm nhìn đoàn tàu đêm. Nhà văn sử dụng những chất liệu đời thường rất bình dị, miêu tả bức tranh phố huyện hiện lên với sự buồn bã từ con người đến cảnh vật, thêm vào đó là diễn biến tâm trạng của cô bé Liên khi chứng kiến khoảnh khắc lụi tàn của một ngày dài, điều đó đã mang đến cho người đọc những sự đồng cảm với những con người nơi đây.
Nhà văn Thạch Lam đã vẽ nên một bức tranh phố huyện vào thời khắc hoàng hôn, khi đã trải qua một ngày dài thì vạn vật đều mang một màu sắc ảm đạm thiếu sức sôngs. Bức tranh ấy mang cái vẻ buồn bã, não nề từ con người cho tới cảnh vật xung quanh. Ngày tàn, chợ vãn, những kiếp người cố gắng bám trụ vào mảnh đất nghèo ấy.... tất cả đã tạo nên một không khí nghèo khổ, heo hút cho nơi phố huyện. Khung cảnh ngày tàn ấy lại càng trở nên sinh động hơn với những âm thanh "tiếng trống thu không" báo hiệu kết thúc một ngày lao động từ "trên cái chòi huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều", "tiếng ếch nhái kêu ran" ngoài đồng ruộng và cả những "tiếng muỗi vo ve". Chiều tàn buông xuống đã làm phai mờ cảnh vật, màu chiều buồn báo hiệu cho một ngày đã trôi qua. Mặc dù rõ ràng là tả âm thanh, những thứ âm thanh dai dẳng, réo rắt nhưng người ta lại không cảm thấy được sự vui tươi, nhộn nhịp của con người sau một ngày dài lao động mà nó lại hiện lên sự não nề. Tiếng động vật, tiếng trống vẳng lại từ xa ấy cho ta cảm nhận được sự yên ắng, cô liêu của nơi phố huyện bởi chỉ vài âm thanh nhỏ bé ấy đã khuấy động được không gian nơi đây. Trên nền âm thanh ấy là những hình ảnh, màu sắc đượm buồn, "Phương Tây đỏ rực như lửa cháy", những đám mây "ánh hồng như hòn than sắp tàn". Màu của ráng chiều, màu cam, màu đỏ ối hòa quyện vào nhau, sắc hoàng hôn chỉ có thể nhìn ngắm khi sống ở vùng nông thôn. Và chỉ một lát nữa thôi, những màu sắc ấy sẽ bị thay thế bởi một màu đen thăm thẳm của màn đêm, bóng tối sẽ bủa vây và bao trùm lên tất cả. Dường như có những sự tiếc nuối, sự mong muốn níu giữ trong câu văn của tác giả. Những con người nơi phố huyện phải chăng là đang cố gắng cảm nhận, lắng nghe và ghi nhớ những khoảnh khắc cuối cùng của ngày tàn. Một bức tranh phong cảnh thiên nhiên quen thuộc ấy vậy mà sao lại buồn thương đến thế. Hoàng hôn đẹp đẽ, tráng lệ là vậy mà sao hiện lên lại thật ảm đạm, não nề".
Và trên cái nền không gian ảm đạm, não nề ấy hình ảnh con người hiện lên cũng mang những nét đượm buồn, ủ dột. Cảnh phiên chợ tàn cùng với sự xuất hiện của con người lại càng làm tăng thêm những sự xơ xác, đìu hiu của nơi phố huyện nghèo ấy. "Chợ đã vãn từ lâu", "chỉ còn một vài người bán hàng về muộn ở lại dọn hàng, họ trò chuyện vội vã với nhau vài câu", trên nền chợ chỉ còn lại rác rưởi, vỏ thị, vỏ bưởi,...". Con người ở đây xuất hiện tuy không lẻ loi, cô độc nhưng cái nghèo dường như đã ăn vào máu xương, vào cuộc sống của họ, "những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất, đi tìm tòi, nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất kì thứ gì còn sót lại". Những đứa trẻ nhà nghèo chỉ biết tìm những thứ người ta bỏ lại sau phiên chợ để có cái ăn, có đồ chơi.Những người dân ở nơi phố huyện này lần lượt được xây dựng với những tính cách đối lập, những hoàn cảnh khác nhau nhưng họ giống nhau bởi một chữ "nghèo". "Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc, đêm lại dọn hàng nước bán, dù chăm chỉ làm lụng nhưng vẫn không đủ sống", bà cụ Thí nghiện rượu lúc nào cũng say xỉn, cùng với tiếng cười khanh khách đầy ám ảnh, hai chị em Liên và An - những đứa trẻ còn nhỏ nhưng đã tự coi giữ một cửa hàng tạp hoá giúp mẹ. Rồi gánh phở nhà bác Siêu, một thức quà xa xỉ ở cái phố huyện quanh năm nghèo đói này, rồi gia đình bác Xẩm mù sống bằng nghề hát dạo qua ngày mong mỏi chút tấm lòng hảo tâm của những vị khách qua đường... Những số phận ấy, những con người tưởng chừng như đang ngày một lụi tàn, héo mòn nhưng vẫn ngày ngày bám víu, nương tựa vào mảnh đất này, cùng nhau tồn tại. Cuộc sống của họ mòn mỏi, lay lắt, sống dường như chỉ để qua ngày. Phải chăng cái nghèo, sự buồn chán đã rút hết đi sức sống của họ, hay chính cái hoàn cảnh éo le đã đưa đẩy họ về vùng đất này, để cùng cmar thông và chia sẻ với nhau.
Bức tranh phố huyện tạm bợ, nghèo đói nay lại càng trở nên ảm đạm, ủ dột hơn dưới con mắt của bé Liên. Là nhân vật trung tâm, điểm nhìn của tác giả cũng bắt nguồn từ nhân vật này. Cô bé đã cảm nhận được sự tiêu điều nơi phố huyện, cô xót thương cho những số phận bất hạnh, lận đận của mẹ con nhà chị Tí, cho bà cụ Thi, tiếc nuối cái quãng thời gian mà gia đình khá giả còn được sống nơi phố thị sung túc, đủ đầy. Tâm hồn nhạy cảm, từng trải và lối suy nghĩ già trước tuổi của mình, bé Liên đã cảm nhận được "mùi âm ẩm bốc lên trọn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc", sự ẩm mốc ấy lại trở thành một thứ gì đó quen thuộc trong cuộc sống. Đáng lẽ ra, trẻ con phải có được một cái nhìn ngây thơ, non nớt, lạc quan, yêu đời, thế nhưng với Liên, cô bé như cảm nhận cùng cảnh vật, có yên tĩnh, có buồn thương, có tiếc nuối, có buông bỏ. Dù trong hoàn cảnh cùng cực, cô bé vẫn nhận thấy được sự chăm chỉ, cần mẫn cố gắng, yêu thương nhau của mẹ con nhà chị Tí, vẫn "rót đầy một cút rượu ty" cho bà cụ Thi điên dở, động lòng thương cho những đứa trẻ đang nhặt rác nhưng đành ngậm ngùi quay đi bởi không có tiền cho chúng, và cũng không quên dành những tình cảm của một người chị cho đứa em - cậu bé An. Liên là nhân vật duy nhất trong tác phẩm được miêu tả có diễn biến cảm xúc, đồng thời nhà văn Thạch Lam cũng lấy điểm nhìn của bé Liên để miêu tả cảnh sắc buổi chiều của nơi phố huyện nghèo. Qua góc nhìn đó, những miêu tả vừa đảm bảo được tính cụ thể, chân thực lại có sự trữ tình, lãng mạn theo cảm nhận của một cô bé đang lớn.
Bức tranh phố huyện hiu hắt, buồn thương được Thạch Lam khắc họa bằng cả tài và tình, người đọc vừa có dịp được sống trong không khí của một phố huyện nghèo, vừa xót thương cho những số phận bất hạnh, tẻ nhạt nơi đây. Thế nhưng ẩn sâu trong những con người ấy vẫn là niềm tin, là sự cố gắng, tin vào bản chất tốt đẹp của con người và cùng mong chờ vào ánh sáng của cuộc đời sẽ soi chiếu cho họ. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp nhưng buồn, sự quẩn quanh bế tắc của con người cũng đã đặt ra những nỗi niềm băn khoăn cho người đọc về một kiếp đời sống mòn, đồng thời thể hiện sự tôn trọng, cảm mến với những con người có ước mơ, có nghị lực. Giọng văn miêu tả độc đáo mà gần gũi đã làm nên cái chất của Thạch Lam, làm nên tên tuổi để đời của một thời kì văn học đỉnh cao của nước nhà.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
14/12/2025
Top thành viên trả lời