16/06/2024

16/06/2024
16/06/2024
Trong sáng tác thi ca, nhà thơ không cần sốt ruột với những lời tán tụng rộn ràng và tràng vỗ tay phù phiếm, vì công chúng vẫn đợi nhà thơ ở cuối con đường khấp khểnh âu lo và lận đận. Mỗi câu thơ luôn mang ánh sáng số phận của nhà thơ được san sẻ cho số phận của bạn đọc vô danh một cách nhân ái và bao dung. Chia sẻ về thơ, Lê Thiếu Nhơn cho rằng: Trong những giấc mơ nặng trĩu kiếp người, thơ vỗ về và an ủi đắng cay, thơ chở che và nâng đỡ bất hạnh. Ý kiến đã khẳng định vai trò của thơ ca trong việc nâng đỡ tâm hồn con người; sức sống của một tác phẩm và vị trí của nhà thơ không phụ thuộc vào sự tán thưởng nhất thời của công chúng mà ở những giá trị đích thực, hướng về con người.
Đối tượng phản ánh của văn học là con người. Văn học nói chung, thơ ca nói riêng luôn hướng đến những trăn trở, suy tư về con người, giúp con người tự chữa lành vết thương. Thơ ca thực hiện chức năng đồng hành và nâng đỡ con người trong những đắng cay, bất hạnh một cách đặc thù: Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. Nhà thơ viết ra để giải tỏa những dồn nén bên trong, thể hiện những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời. Những rung động mãnh liệt, những trăn trở nhân sinh, những khát vọng thẩm mỹ trong thơ sẽ lan tỏa, tác động sâu sắc tới người đọc. Thơ vỗ về và an ủi, chở che và nâng đỡ bằng cách thấu hiểu, chia sẻ, đồng cảm, thức tỉnh... với những nỗi khổ niềm đau của con người. Con đường thơ ca đến với độc giả đầy gian nan và thử thách. Nhưng tác phẩm văn chương đích thực không sợ sự khen chê mà chỉ sợ sự lãng quên. Những cái nhất thời, phù phiếm không làm nên giá trị vĩnh viễn. Tác phẩm thơ được sàng lọc qua thử thách khắc nghiệt của thời gian, được định giá ở giá trị nhân sinh sâu sắc và chỗ đứng trong lòng độc giả. Đây là nhận định sâu sắc, đặt ra yêu cầu tất yếu đối với tác phẩm thơ có giá trị và sức sống lâu bền. Thơ ca vỗ về, an ủi, sẻ chia và nâng đỡ con người bằng cách thức riêng, thông qua ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu... giàu tính nghệ thuật. Thơ ca không chỉ nâng đỡ những đau khổ, bất hạnh mà còn đồng hành với niềm vui, niềm hạnh phúc của con người. Nhận định trên không chỉ đúng với thơ mà còn phù hợp với các thể loại văn học.
Trong thơ Nguyễn Quang Thiều , ta luôn bắt gặp những người đàn bà thôn quê lam lũ. Nguyễn Đăng Điệp viết “Trong cái nhìn của tôi, nếu Sự mất ngủ của lửa là tập thơ quan trọng nhất thì Những người đàn bà gánh nước sông có lẽ là tập thơ hay nhất của Nguyễn Quang Thiều. Bài thơ Những người đàn bà gánh nước sông của Nguyễn Quang Thiều giản dị nhưng lại mang tầm vóc bao trùm, là những giấc mơ nặng trĩu kiếp người, thơ vỗ về và an ủi đắng cay, thơ chở che và nâng đỡ bất hạnh.
Trước hết bài thơ nói về những nỗi vất vả nhọc nhằn trong kiếp mưu sinh của người lao động vùng sông Đáy quê hương tác giả, mà có lẽ cũng là ở bất cứ vùng châu thổ nào khác. Chủ nghĩa hiện sinh khẳng định cuộc đời con người từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi luôn phải đối mặt với nỗi cô đơn điều đó trở thành vòng tròn vĩnh viễn luôn đeo bám con người. Nguyễn Quang Thiều tái hiện những nỗi cô đơn của kiếp người lao động thông qua hệ thống hình ảnh chân thực đến trần trụi. Đó là hình ảnh bàn chân “tõe ra như ngón chân gà mái”.
Hình ảnh đôi bàn chân người phụ nữ đã từng đi vào văn chương thơ ca. Nguyễn Minh Châu miêu tả “đôi gót chân hồng hồng, sạch sẽ”, Tố Hữu với “bàn chân em lạnh ngắt”. Nguyễn Quang Thiều đề cập đến những người đàn bà gánh nước đẹp đến nao lòng trong cuộc mưu sinh vất vả với hình ảnh bàn chân gợi ám ảnh trong lòng người đọc.
Nếu như hình ảnh bàn chân trong văn Nguyễn Minh Châu và thơ Tố Hữu trước đây là biểu tượng cho những cô gái tươi đẹp, trẻ trung, thì bàn chân trong thơ Nguyễn Quang Thiều là bàn chân của những người đàn bà, người mẹ đầy khắc khổ giữa cuộc mưu sinh vất vả, nhọc nhằn. Nguyễn Quang Thiều đã so sánh bàn chân người đàn bà gánh nước như chân gà mái tõe ra – một hình ảnh so sánh táo bạo, không hề mang ý giễu cợt, ngược lại nó rất chân thành và xúc động.
Đó đâu chỉ là thân phận người đàn bà nông thôn vùng quê tác giả. Ở đâu trên vùng quê Việt chúng ta cũng bắt gặp những người đàn bà khắc khổ lam lũ nhọc nhằn, thô kệch thậm chí vô duyên như là sản phẩm của hoàn cảnh sống nghèo khổ tăm tối. Hoàn toàn không phải là người phụ nữ “êm đềm trướng rủ màn che”, không phải người phụ nữ khuê các ngày ngày trang điểm để chờ chồng đi chiến trận. Cũng không phải là người phụ nữ má hồng thắt đáy lưng ong trong ca dao, không phải người phụ nữ má lúm đồng tiền hay những dáng kiều thơm của Hà Nội hào hoa thanh lịch… Người phụ nữ mà Nguyễn Quang Thiều muốn nói tới là những người chị, người mẹ Việt Nam của chúng ta từ xưa cho tận bây giờ chịu nhiều vất vả hi sinh thua thiệt. Câu thơ ẩn chứa bao nỗi gian truân vất vả của thân phận người phụ nữ lao động vùng nông thôn nghèo khó. Đó là sự thật không thể né tránh mà có thể nói thơ ca và lịch sử đã từng lãng quên họ. Hãy sống chậm lại và quan sát sẽ thấy khắp nơi những thân phận người mẹ người chị người bà cả cuộc đời bươn chải bước thấp bước cao gánh gồng, bới nhặt trên từng thửa ruộng luống cày. Từ mờ sáng cho đến tối mịt, họ cui cút, lầm lụi để mưu sinh để tìm về một điểm dừng chân là nhà là mái ấm gia đình mà chưa hẳn đã được bình yên. Câu thơ khiến người đọc nghĩ ngay đến những người phụ nữ xa lạ với cái đẹp, những người phụ nữ khước từ mọi sự quyến rũ của những mĩ phẩm hay sự chăm sóc bản thân. Ở họ toát lên vẻ thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch của người đàn bà hàng chài, hay quần áo sặc mùi lúa gạo của má Việt – người nông dân Nam Bộ. Đằng sau vẻ bề ngoài của những người đàn bà đi gánh nước sông là những day dứt xót xa khiến mỗi con người tự cảm thấy một phần trách nhiệm của mình để kéo họ trở về với cuộc sống đích thực để cảm thông để chia sẻ. Số phận người đàn bà đi gánh nước sông đã từ xa xưa từ “năm năm, mười lăm năm và nửa đời tôi thấy/Những người đàn bà xuống gánh nước sông”. Câu thơ lặp đi lặp lại tạo nên điệp khúc diễn tả sự đều đặn, mòn mỏi hành động đi gánh nước dưới sông để mưu sinh với những vùng đất nghèo nàn lạc hậu. Nhịp điệu câu thơ hay nhịp đời triền miên trong chuỗi tuần hoàn của cái nghèo, cái thiếu thốn cái tù đọng, không đổi thay, không phát triển. “Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt” câu thơ bồi thấn cho người đọc thấy cụ thể hơn nỗi nhọc nhằn vất vả. Mái tóc vốn được xem là một góc con người. Mái tóc dài được ca dao gợi tả.
Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối dạ anh
Hay đó là mái tóc vén khéo “búi sau đầu” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Mái tóc người đàn bà lam lũ nhọc nhằn vật lộn mưu sinh “vỡ xối xả” trở thành tín hiệu để người đọc nhận ra những nhọc nhằn tủi cực mà người phụ nữ phải đối mặt. Bối tóc vỡ ra bởi sự đè nặng của công việc lao động chân tay vượt ngoài giới hạn của sức lực và thân phận người phụ nữ. Bối tóc xối xả bung ra, xõa ra vì công việc nặng nhọc xuống tấm áo bạc phếch mềm và ướt tạo nên sự cộng hưởng về một bức chân dung của người phụ nữ chỉ biết lấy công việc làm nguồn sống. Họ đang gánh nước cũng như gánh cả những gian nan sấp ngửa của cuộc đời với những tủi hờn hòa trộn trong từng giọt mồ hôi và nước mắt mặn chát. Đó phải chăng là tín hiệu của tiếng kêu thương của phận người. Tác giả cảm nhận dáng vẻ người đàn bà từ trong sâu thẳm nỗi cô đơn thân phận, không chỉ tả thực mà còn tìm về với những lầm lụi trong kiếp mưu sinh của những thế hệ người phụ nữ thôn quê đáng được cảm thông thấu hiểu. Có nhà hiện sinh đã từng quan sát và nhận xét cuộc đời con người cũng giống như lũ kiến bé nhỏ lầm lũi trong kiếp mưu sinh tội nghiệp đáng thương. Họ sinh ra một cách ngẫu nhiên và phải chịu trách nhiệm về sự tồn tại của chính mình. Họ sống mà không biết được tương lai sẽ như thế nào chỉ biết đối mặt với vòng đời vất vả gian nan.
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Lời thơ tái hiện hình ảnh người đàn bà một tay bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi. Đó là động tác có thực khi gánh nước một tay bám vào đầu đòn gánh để giữ vững sự cân bằng. Nhưng đó còn là cử chỉ thật tội nghiệp đáng thương vì nó là công việc mưu sinh nhưng hé lộ sự bấp bênh bé bỏng chơi vơi không vững vàng chắc chắn. Đối lập lại là một tay bám vào mây trắng. Mây trắng thuộc về vũ trụ vừa đẹp vừa kì vĩ xa xôi. Câu thơ khiến người đọc hình dung về khát vọng sống mãnh liệt cháy bỏng của người lao động mong được vươn tới những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Dù hiện tại đầy gian nan nhưng con người luôn nuôi dưỡng một khát vọng được sống, được đam mê đuổi theo những khát vọng sống đầy nhân bản để khẳng định mình, để in dấu cá nhân mình như một nhân vị trước vũ trụ bao la. Câu thơ mang hơi hướng siêu thực nhưng cô đúc những suy nghiệm của tác giả. Hình ảnh người đàn bà đi gánh nước sông được hình dung như sông gục mặt vào bờ đất. Câu thơ tạo sự biến ảo chính là con người đang gục mặt đang ghé mặt tận bờ đất theo kiểu “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” để tìm bới miếng ăn. Cuộc đời trở nên lầm lũi trầy trật với gánh nặng mưu sinh. Không chỉ có người đàn bà vất vả trong vòng xoay của cuộc sống người đàn ông cũng mang thân phận như vậy.
Những đàn ông mang cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi
Cùng với những người đàn bà lam lũ là những người đàn ông mang cần câu đi tìm sự sống. Hình ảnh họ ra khỏi nhà lặng lẽ trong những cơn mưa biển tạo nên nỗi buồn thầm lặng. Thành quả với họ không dễ dàng khi những con cá thiêng “quay mặt khóc”. Cả người và cá đều cô đơn trước sự khô cằn của cuộc sống. Những chiếc phao ngô chết nổi vô hồn vô cảm. Những người đàn ông “giận dữ, buồn bã” và đành bỏ đi. Họ giận thiên thời địa lợi, giận cả chính mình trong nỗi buồn vô vọng.
Đã năm năm, mười năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy.
Sau những người đàn bà gánh nước sông và lũ trẻ cởi truồng.
…
Chạy theo mẹ và lớn lên.
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến.
Con trai lại vác cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ.
Những câu thơ bộc lộ suy nghĩ trăn trở của nhà thơ. Thời gian trôi qua từ những mốc số năm năm, mười năm, ba mươi năm, nửa đời… Đó là thời gian dài đằng đẵng hơn nửa đời người. Những đứa con trai con gái của người đàn bà đi gánh nước sông lớn lên lại tiếp bước cha mẹ chúng, lại bắt đầu kiếp mưu sinh đầy khó nhọc. Cuộc đời của chúng lại trầy trật vật lộn với những bước chân tõe ra như chân gà mái, lại gục mặt vào bờ đất để lặn lội tìm kế mưu sinh. Tác giả đã khái quát được một cách đầy chân thực vòng đời của người lao động ở nông thôn. Cuộc đời của họ kế tiếp từ đời này qua đời khác cứ luẩn quẩn với những không gian hẹp những không gian khô cằn buồn lặng với những thời gian chết, trôi đi vô nghĩa. Ý thơ khiến người đọc giật mình tỉnh thức khi ở đâu đó chúng ta đã lãng quên đã dửng dưng với nỗi cô đơn của con người… Vô hình chung câu thơ của Nguyễn Quang Thiều đã tạo tính chất phản tỉnh mạnh mẽ. Đọc thơ ông không chỉ để hiểu mà người đọc còn giật mình đặt ra bao câu hỏi. Ta là ai? Con người sống như thế nào trong vòng nhân loại? Phải làm sao để khẳng định vị thế của cái tôi bản thể như một nhân vị mà anh ta đã ngẫu nhên có mặt trên cõi đời.
Đằng sau ý tứ lời thơ vừa chân thực vừa lạ hóa, tác giả bộc lộ những trăn trở day dứt đầy ám ảnh về thân phận người phụ nữ và người nông dân lao động nói chung. Có thể thấy nhà thơ rất am hiểu và luôn day dứt trước những phận đời buồn thương khổ hạnh, âm thầm lặng lẽ trong sự tẻ nhạt, khó nhọc của đời người. Tính nhân văn toát lên từ sự thấu hiểu, cảm thương, chia sẻ với những số phận con người sống lay lắt cằn cỗi. Một trong những biểu hiện của tính nhân văn là quan tâm đến những nỗi đau những bi kịch của số phận con người. Con người luôn đối mặt với nỗi cô đơn từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi. Có những nỗi cô đơn thầm lặng hiển thị qua bề ngoài thô kệch cằn cỗi. Con người càng vất vả cô đơn càng khát khao được sống. Không kêu ca tuyệt vọng, con người luôn xem cô đơn âu lo là một tất yếu, cần vượt thoát để khẳng định nhân vị một cách mạnh mẽ và dũng cảm. Phát hiện và đề cập đến những nỗi đau thầm lặng và trân trọng khát vọng sống mãnh liệt ấy chính là thiên chức và tài năng phẩm hạnh của người nghệ sĩ.
Ý kiến “Trong những giấc mơ nặng trĩu kiếp người, thơ vỗ về và an ủi đắng cay, thơ chở che và nâng đỡ bất hạnh.” đã đề cao vai trò của thơ ca trong đời sống tinh thần của con người; định hướng giá trị của một tác phẩm thơ ca đích thực. Ý kiến gợi ra yêu cầu đối với nhà thơ và bạn đọc: Nhà thơ phải sống sâu với đời và sống sâu với cảm xúc của chính mình, tạo ra được dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo, mới mẻ; biết chấp nhận và vượt qua thử thách trong hành trình sáng tạo. Còn độc giả thì phải trau dồi khả năng thưởng thức nghệ thuật, đồng điệu cùng với thế giới nghệ thuật thơ, sàng lọc, thẩm định và tôn vinh những giá trị văn học.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời