avatar
level icon
thienanan

22/07/2024

Vì sao nói chế độ hôn nhân ở nước ta là chế hôn nhân tiến bộ?

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của thienanan
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

22/07/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Chế độ hôn nhân ở nước ta được gọi là chế hôn nhân tiến bộ vì theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, hôn nhân được quy định là tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Điều này thể hiện sự tiến bộ trong quan hệ hôn nhân, tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ của cả hai bên, đồng thời khẳng định sự bình đẳng giữa vợ chồng. Điều này giúp tạo ra một môi trường hôn nhân lành mạnh, bền vững và phát triển trong xã hội.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Chải

23/07/2024

thienanan ;

Chế độ hôn nhân tiến bộ được coi là một trong những nguyên tắc quan trọng và cơ bản nhất được ghi nhận trong Luật hôn nhân và gia đình cũng như Hiến pháp của nước ta. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ tại khoản 1 Điều 36, công nhận quyền của nam và nữ kết hôn và ly hôn như sau: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
sunji

22/07/2024

Chế độ hôn nhân ở nước ta được gọi là chế hôn nhân tiến bộ vì theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, hôn nhân được quy định là tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Điều này thể hiện sự tiến bộ trong quan hệ hôn nhân, tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ của cả hai bên, đồng thời khẳng định sự bình đẳng giữa vợ chồng. Điều này giúp tạo ra một môi trường hôn nhân lành mạnh, bền vững và phát triển trong xã hội.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Cún Tóc Lô

22/07/2024

thienanan

Vì :

+Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng tôn trọng lẫn nhau

+Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định

Hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính và tự nguyện: Một trong những đặc điểm quan trọng của hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là sự tự nguyện và chân thành trong việc lựa chọn kết hôn. Hôn nhân được xây dựng trên nền tảng tình yêu chân chính, không bị áp đặt hoặc cưỡng ép từ bất kỳ bên nào. Nam và nữ có quyền tự do chọn người bạn đời dựa trên tình yêu và đồng ý kết hôn một cách tự nguyện.


<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>


- Quyền tự do, tự nguyện trong kết hôn: Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ mang đến quyền tự do và tự nguyện trong quá trình kết hôn. Nam và nữ đủ điều kiện theo quy định được tự do và tự nguyện kết hôn, lập gia đình mà không bị bất kỳ áp lực hay cản trở nào. Quyền này đảm bảo rằng hôn nhân được thiết lập dựa trên sự đồng ý và nguyện vọng của cả hai bên.

- Quyền tự do và bình đẳng trong đời sống gia đình: Sau khi kết hôn, vợ chồng có quyền tự do và bình đẳng trong tất cả các vấn đề liên quan đến đời sống gia đình. Họ có quyền tự do lựa chọn nơi cư trú, tổ chức cuộc sống gia đình, quyết định về giáo dục con cái và quản lý tài sản. Điều này đảm bảo sự cân nhắc và thống nhất giữa vợ chồng trong việc quyết định và thực hiện các quyền và trách nhiệm gia đình.

Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ tôn trọng sự tự do và quyền lựa chọn của mỗi cá nhân trong việc xây dựng một mối quan hệ hôn nhân. Điều này đảm bảo sự tình yêu chân chính và sự đồng ý tự nguyện của cả hai bên, từ đó tạo ra một gia đình bình đẳng và tự do, nơi mà vợ chồng có thể cùng nhau xây dựng hạnh phúc.


Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
5.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Sally

22/07/2024

thienanan

Tại Việt Nam, quyền tự do kết hôn đã được nhà nước thừa nhận và bảo vệ và cụ thể hóa trong Hiến pháp, Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự, các pháp lệnh…

Điều 36 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, li hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”.

Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định: “ Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn”.

Luật hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 thay thế Luật hôn nhân và gia đình 2000 cũng đã quy định chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình.

Theo đó, tại Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình quy định hôn nhân phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Điều 2 cũng quy định, Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ cũng đồng thời phải đảm bảo tự do li hôn. Nếu như không thể bắt buộc người ta kết hôn thì cũng không thể bắt buộc họ tiếp tục chung sống cuộc sống vợ chồng, khi cuộc sống đó không thể hòa hợp, tình cảm rạn nứt và hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn được. Đặc biệt, việc li hôn phải đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước thông qua tòa án, khi mà 1 bên vợ hoặc chồng hoặc cả hai đều muốn đệ đơn li hôn ra tòa.

Việc thực hiện hôn nhân tự nguyện, tiến bộ nằm xây dựng mái ấm gia đình ấm no,hạnh phúc, kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.

Đặc biệt, vấn đề kết hôn đồng tính đang đặt ra những tranh cãi không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới và đang đặt ra câu hỏi là có nên thừa nhận vấn đề này hay không. Tại Việt Nam, Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2014 đã bỏ quy định "cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính" từ ngày 1 tháng 1 năm 2015. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 vẫn quy định "không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính" và những người đồng giới tính vẫn có thể chung sống với nhau nhưng sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
5.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
J'Hanry

22/07/2024

$*$BN tham khảo:

Trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khái niệm kết hôn được hiểu đơn giản là sự kết hợp giữa nam và nữ, để duy trì nòi giống, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau.

Theo đó, hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện, tiến bộ, xuất phát từ tình yêu chân chính, mỗi cá nhân đều quyền tự do lựa chọn bạn đời cho mình và không ai có quyền ép buộc họ làm trái với ý chí kết hôn của mình. Quyền tự do hôn nhân đều được quốc tế, pháp luật mỗi quốc gia thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ nhằm đảm bảo cho mỗi cá nhân được quyền yêu thương, kết hôn với người bạn đời lý tưởng của mình. Bất kể hành động ép buộc nào khiến họ kết hôn với người không mong muốn đều sẽ vi phạm nguyên tắc và sẽ không được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, nếu cuộc hôn nhân xảy ra mâu thuẫn không thể hàn gắn thì vợ chồng có quyền yêu cầu ly hôn. Việc kết hôn là dựa trên tình yêu nam nữ, việc ly hôn dựa trên quan hệ vợ chồng không thể tồn tại.

Trong Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị 1966, quy định những quyền dân sự và quyền chính trị của mỗi người cũng đã dành hẳn một điều khoản để quy định về quyền tự do hôn nhân của mỗi cá nhân.

Cụ thể, Điều 23 Công ước quy định: “Thanh niên nam nữ đến tuổi thành hôn có quyền kết hôn và lập gia đình” và “Hôn thú chỉ được thành lập nếu có sự ưng thuận hoàn toàn tự do của những người kết hôn”.

Theo quy định của Công ước, gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản trong xã hội và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ, mỗi cá nhân nam nữ khi đến một độ tuổi trưởng thành, nhận thức được đầy đủ hành vi thì đều có quyền được kết hôn và lập gia đình. Tuy nhiên, hôn nhân phải được xác lập trên cơ sở tự do lựa chọn người kết hôn, không bị ép buộc hay phải chịu một sức ép nào đó.

Đặc biệt, Công ước cũng quy định, các quốc gia hội viên ký kết Công ước này phải ban hành những biện pháp để bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm của vợ chồng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú, cũng như khi ly hôn. Trong trường hợp ly hôn phải quy định những biện pháp bảo vệ quyền lợi của các con.

Tuyên bố của Liên hợp quốc về tiến bộ xã hội trong phát triển cũng tiếp tục khẳng định, gia đình là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mỗi thành viên, nhất là trẻ em. Đảm bảo quyền tự do hôn nhân của mỗi cá nhân là đảm bảo cho sự ổn định, hạnh phúc mỗi gia đình, là môi trường phát triển lý tưởng, tốt đẹp của trẻ em. Vì hôn nhân có hạnh phúc viên mãn thì trẻ em mới có điều kiện để được giáo dục, chăm sóc tốt, đảm bảo cho sự phát triển trong tương lai.

Tại Việt Nam, quyền tự do kết hôn đã được nhà nước thừa nhận và bảo vệ và cụ thể hóa trong Hiến pháp, Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự, các pháp lệnh…

Điều 36 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, li hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”.

Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định: “ Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn”.

Luật hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 thay thế Luật hôn nhân và gia đình 2000 cũng đã quy định chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình.

Theo đó, tại Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình quy định hôn nhân phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Điều 2 cũng quy định, Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ cũng đồng thời phải đảm bảo tự do li hôn. Nếu như không thể bắt buộc người ta kết hôn thì cũng không thể bắt buộc họ tiếp tục chung sống cuộc sống vợ chồng, khi cuộc sống đó không thể hòa hợp, tình cảm rạn nứt và hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn được. Đặc biệt, việc li hôn phải đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước thông qua tòa án, khi mà 1 bên vợ hoặc chồng hoặc cả hai đều muốn đệ đơn li hôn ra tòa.

Việc thực hiện hôn nhân tự nguyện, tiến bộ nằm xây dựng mái ấm gia đình ấm no,hạnh phúc, kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.

Đặc biệt, vấn đề kết hôn đồng tính đang đặt ra những tranh cãi không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới và đang đặt ra câu hỏi là có nên thừa nhận vấn đề này hay không. Tại Việt Nam, Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2014 đã bỏ quy định "cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính" từ ngày 1 tháng 1 năm 2015. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 vẫn quy định "không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính" và những người đồng giới tính vẫn có thể chung sống với nhau nhưng sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
5.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved